Lời giới thiệu:
Herbert George Wells là nhà văn chuyên viết truyện khoa học viễn
tưởng nổi tiếng nhất của nước Anh. Cùng với tác giả Jules Verne (Pháp), H.G. Wells được coi là “cha đẻ của loại hình tiểu
thuyết khoa học viễn tưởng”. Những tác phẩm của ông đã đặt nền móng cho loại
hình văn học này, đồng thời đưa ra nhiều dự báo đối với tương lai của nhân loại
với sự một tầm nhìn chính xác đến kỳ lạ. Những tác phẩm nổi tiếng như Cỗ máy thời gian - The Time Machine, Người
tàng hình - The Invisible Man, Chiến tranh các thế giới - The War of the
Worlds, Người đầu tiên trên mặt trăng - The First Men in the Moon đều thu
hút một lượng độc giả khổng lồ, được nhiều lần dựng thành phim và trở thành
nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà phát minh trên khắp thế giới.
Ở địa hạt truyện
ngắn, H.G. Wells không viết nhiều, tuy nhiên dấu ấn của ông để lại rất đáng kể.
Vương quốc người mù – The Country of the Blind được các nhà
phê bình đánh giá là truyện ngắn xuất sắc nhất của ông.
VƯƠNG QUỐC NGƯỜI MÙ
(Truyện ngắn của nhà văn
H.G.Wells)
Cách Chimborazo ba trăm dặm về phía hoang vu nhất của dãy núi
Andes, có một địa điểm huyền bí: Vương quốc
người mù.
Thủa xưa, một nhóm người Peru trốn tránh chế độ cai trị tàn
bạo của người Tây Ban Nha. Họ chạy trốn qua những vách núi hiểm trở cheo leo và
định cư ở nơi này. Một hôm, động đất khiến ngọn núi lửa Mindobamba phun trào tỏa
khói bụi làm bầu trời đen kịt. Vương quốc người mù bị thụt sâu xuống lòng đất,
tách biệt hẳn khỏi phần còn lại của thế giới. Khói bụi của ngọn núi lửa khiến
thung lũng trải qua một thời kỳ dài không có ánh sáng mặt trời. Người dân nơi
đây sống trong bóng tối lâu dần rồi mắc một căn bệnh kỳ lạ. Đôi mắt của họ dần
bị thoái hóa và tất cả dần trở nên mù lòa. Tuy thị giác mất đi nhưng họ vẫn là
những con người hoàn toàn khỏe mạnh. Họ sống trong những hang động, chăn nuôi
gia súc và giữ cho mình một nền văn hóa riêng biệt.
Nunez là một chàng trai hai mươi tuổi, chuyên nghề leo núi,
sống ở thị trấn Bogota.
Anh không lạ gì câu chuyện huyền thoại về thung lũng người mù. Với anh, đó chỉ
là huyền thoại.
Lần đó, có một nhóm du khách người Anh muốn khám phá đỉnh
Matterhorn của dãy Andes. Nunez được thuê làm
người dẫn đường. Đêm hôm đó, mọi người cắm trại nghỉ ngơi. Sáng dậy, Nunez đã
biến mất. Người ta thấy vết tuyết hằn lên, cho thấy Nunez đã trượt chân ngã
xuống vực thẳm. Cả đoàn quay về thị trấn Bogota,
thông báo rằng anh đã chết.
Nhưng Nunez chưa chết.
*
Nunez rơi khỏi mép vực, lao thẳng xuống một cái hồ nước. Anh
vội bơi vào bờ. Nằm ướt như chuột lột bên bờ hồ, nhìn lên vách đá cao vút tầm
mắt, Nunez thấy tứ chi ê ẩm. Tất cả vật dụng anh mang theo đã văng rơi tung tóe
dưới đáy hồ. Nunez nhìn lên vách đá cao vút lắc đầu. Rồi anh cố đứng dậy lê
bước đi sâu vào trong thung lũng. Có thể lòng thung lũng cao thoải lên dần, sẽ
dẫn anh đến phía bờ bên kia của vực. Hy vọng là thế.
Nunez đi mãi. Trước mắt anh là một vùng bình nguyên rộng lớn,
đồng cỏ xanh mướt dưới ánh nắng vàng rượm. Lại gần hơn, anh thấy một bức tường
được xây thô vụng cao đến ngực. Bên trong bức tường là mấy ngôi lều trông xấu
tệ hại. Xa xa là dường như có một đám người nằm ngủ thõng thượt trông thật viên
mãn. Gần bờ tường có ba người đàn ông đang gánh nước, đi nối đuôi nhau, vừa đi
vừa ngáp dài.
Nunez mừng rỡ. Anh vội gọi to và vẫy tay rối rít ra hiệu. Ba
người kia sững lại rồi nhớn nhác nhìn quanh. Nunez vội chạy lại gần. Họ lập tức
đứng sát lưng vào với nhau, khuôn mặt lộ vẻ hoang mang. Nunez nhìn kỹ, thấy
những người này không có mắt. Hốc mắt họ chỉ là một lớp da trùm lên nhãn cầu.
Một người cất tiếng, đó là thứ tiếng lơ lớ tiếng Tây Ban Nha:
“Có tiếng người. Nhưng tiếng bước chân lạ lắm. Ai đấy!” Nunez trả lời lễ phép: “Tôi
đến từ Bogota, bị
trượt chân rơi xuống đây. Xin mọi người giúp cho bữa ăn và chỉ cho tôi đường về
nhà”.
Ba người đàn ông ngơ ngác nghe. Rồi như có cùng một linh cảm,
họ vươn tay ra tóm lấy Nunez khiến anh không xoay trở kịp. Họ sờ nắn quanh
người anh. Khi bàn tay họ chạm vào mắt anh, thấy mi mắt động đậy, cả ba đều ồ
lên ngạc nhiên: “Tên Bogota này thật lạ. Không hiểu có phải giống loài chúng ta
hay không?” Người khác lúc lắc: “Nhưng tên Bogota này nói được. Chắc hắn ta phải là
người rồi”. Người nữa kêu lên: “Tốt nhất là đem tên Bogota này đến hỏi các trưởng lão xem sao”.
Thế là ba người lập tức nắm tay Nunez kéo đi. Anh hét lên: “Bỏ
tay ra. Tôi tự nhìn thấy đường được!”. Ba người kia ngơ ngác: “Nhìn. Tên Bogota này nói từ gì lạ quá.
Chắc hắn ta loạn trí mất rồi”. Nói đoạn họ kéo Nunez đi xềnh xệch.
Nunez bị lôi sâu hơn vào bên trong bức tường. Ngoài những căn
lều, ở đây còn có cả những ngôi nhà trông cục mịch đến mức quái dị. Đám người
đang ngủ giờ đã tỉnh dậy. Họ xúm lại xung quanh nghe ngóng, ngửi ngửi. Một số bước
ra chạm vào người Nunez tò mò. Anh để ý thấy tất cả mọi người nơi đây đều không
có mắt. Họ đều bị mù. Chẳng lẽ đây chính là vương quốc người mù huyền thoại?
Trong đầu Nunez bỗng vang lên câu thành ngữ: “Thằng chột làm
vua xứ mù. Ha! Ha! Ta sẽ làm vua ở nơi này”. Anh nhìn mấy người phụ nữ mặt mũi
trông rất khả ái và hít sâu một hơi, tự nhắc lại trong đầu: “Thằng chột làm vua
xứ mù!”
*
Nunez được đặt ngồi đối diện với các vị bô lão. Đám người mù
vây xung quanh nghe ngóng. Các bô lão hỏi anh từ đâu đến, tại sao lại đến đây. Ngữ
điệu của họ giật cục, rất khó nghe. Nunez kể về thị trấn Bogota, về thế giới với những ngôi nhà khang
trang màu sắc rực rỡ, những con đường thẳng ngút tầm mắt, những chiếc xe hơi và
những con người với đôi mắt có thể nhìn thấy mọi thứ.
Các bô lão và cả đám người há mồm nghe anh nói. Họ bàn tán
xôn xao, nét mặt từ kinh ngạc đến sợ sệt và rồi chuyển sang thương cảm. Vị bô
lão lớn tuổi nhất nói: “Tên Bogota này bị loạn trí rồi. Hắn nói những điều mà
không ai có thể hiểu. Thôi được! Tôi sẽ trông giữ hắn ta, dạy dỗ hắn cẩn thận
để hắn biết lao động và giúp đỡ mọi người trong cộng đồng của chúng ta”.
Nunez ngán ngẩm. Những kẻ mù lòa này chẳng hiểu gì hết. Tốt
nhất là tìm cách chuồn đi cho nhanh. Nhân lúc vị bô lão đang lớn tiếng giảng
giải với mọi người, anh nhón chân chạy nhanh nhằm thoát khỏi đám người mù. Lập
tức mọi người như có linh tính, ào ra tóm anh lại mặc cho, anh vùng vẫy gào
thét.
*
Sau một thời gian, Nunez nhận ra sự thật, tuy những người này
không nhìn thấy gì nhưng họ có những giác quan cực kỳ thính nhạy. Họ có thể
nghe thấy từng cử động nhẹ nhàng của anh. Họ có thể ngửi và phân biệt mùi không
khác gì loài chó. Không có mắt nhưng họ xắp xếp mọi thứ vô cùng ngăn nắp. Nếu
cần một vật dụng gì hay cần làm gì, họ có thể thực hiện một cách vô cùng nhanh
chóng. Đó là một thế giới ngăn-nắp-mù-lòa đến hoàn hảo.
Nunez bị nhốt trong một căn phòng của vị bô lão lớn tuổi với
mấy người canh gác. Anh cố gắng giải thích với đám người này về thế giới thực
sự mà họ không thể nhìn thấy. Họ không quan tâm đến những điều Nunez giảng
giải. Với họ, những vách núi chính là nơi tận cùng của thế giới. Với họ, thời
gian chia làm hai: nóng và lạnh, chính là ngày và đêm theo như cách hiểu của
chúng ta. Khi trời nóng, tốt nhất là mọi người nên nghỉ ngơi còn khi trời mát
mẻ mới là lúc làm việc. Họ tin rằng chính những thiên thần đã tạo nên thế giới
này. Họ có thể nghe thấy tiếng của những thiên thần ca hát và vỗ cánh trên cao
nhưng không ai có thể chạm vào những thiên thần đó được. Ban đầu Nunez không
hiểu. Sau này anh ngán ngẩm phát hiện những thiên thần mà họ mô tả hóa ra chính
là lũ chim.
Nunez chán ngấy. Anh tìm cách thoát khỏi đám người mù. Anh
đứng sát cửa ra vào, gần như nín thở. Mấy tên gác cửa nghe ngóng không thấy có
tiếng động. Họ bàn tán với nhau một lúc rồi một tên mở cửa lò dò bước vào. Chỉ
chờ có vậy, Nunez chạy vọt ra ngoài. Đám người mù hò hét. Họ bao vây anh. Anh
vớ lấy cái gậy tấn công lại. Đám người mù có thể nghe thấy tiếng gậy vụt gió
vun vút nhưng không tránh kịp. Mấy người bị anh vụt vào tay bị thương. Nhân đó anh
chạy thẳng về phía bức tường rào, nhao ra bên ngoài lẩn trốn. Đám người mù lần
theo anh đến bức tường thì dừng lại, không tìm tiếp nữa.
Nunez trốn bên ngoài bức tường. Tuy nhiên, chỉ sau mấy tiếng,
anh thấy hối hận. Trời càng về tối, rừng cây đen ngòm, lạnh buốt. Anh co ro.
Thỉnh thoảng xung quanh có tiếng những sinh vật kỳ quái rú lên khiến anh kinh
hãi. Trốn ở ngoài này không chết vì rét thì cũng chết vì thú dữ. Anh vội chạy
về phía bức tường bao, leo vào và gọi những người mù, cầu xin họ tha thứ.
Những người mù hóa ra cũng biết khoan hồng. Các bô lão ra
lệnh đánh cho Nunez mấy gậy. Anh im lặng chịu đòn. Từ đó, anh theo đám người
mù, làm những công việc hàng này. Mọi người quen miệng gọi anh là Bogota. Anh cũng thấy
không cần phải cải chính. Họ đối xử với anh khá tử tế. Nunez dần dần biết phân
biệt từng người. Anh trở thành người hầu của gia đình bô lão tên là Yacob, một người
được cư dân nơi đây rất trọng vọng. Ông khá dễ tính và đầy vị tha. Sống với
những người mù một thời gian, Nunez bỗng cảm thấy quý mến họ, thấy họ sống sao
thật hòa bình và đầm ấm.
*
Yacob có một cô con gái nhỏ tên là tên là Medina-sarote. Nàng
có một khuôn mặt rất cá tính và đầy quyến rũ. Tuy nhiên theo tiêu chuẩn của
người mù, nàng là một cô gái xấu xí. Họ thích những khuôn mặt tròn trĩnh. Giọng
nói nhẹ nhàng thánh thót của Medina-sarote khiến những người đàn ông mù khó
nghe, thành ra cô vẫn chưa có chồng. Đôi khi Nunez ngắm nhìn hình dáng nhỏ nhắn
của cô gái và thầm nghĩ nếu chinh phục được nàng, có lẽ anh sẽ ở lại đây suốt
đời.
Nunez tìm mọi cách tán tỉnh Medina-sarote. Những khi nàng
rảnh việc, anh lân la lại gần và kiếm cớ trò chuyện với nàng. Những câu truyện
của anh thường bị những người mù khác coi là loạn trí. Với Medina-sarote, nàng
coi anh là một kẻ có đầu óc giàu mơ mộng. Nàng lắng nghe với một vẻ mặt đầy
khoan dung khi anh say mê mô tả bầu trời đầy sao lấp lánh với vầng trăng bạc
tỏa sáng. Một hôm, khi mọi người đang quây quần bên nhau trong giờ nghỉ ngơi, anh
mạnh dạn cầm lấy bàn tay nàng. Nàng nhẹ nhàng bóp bóp lên tay anh như lời đáp
trả. Anh ngước nhìn thấy khuôn mặt nàng ánh lên vẻ yêu thương và một nụ cười
đầy quyến rũ.
Cho đến một ngày, Nunez cảm thấy không thể giấu kín tình cảm
của mình được nữa. Nhân ngày hội của cả thung lũng người mù, Nunez xin với bô
lão Yacob cho anh cưới Medina-sarote làm vợ.
Lời cầu xin của Nunez giữa ngày hội khiến mọi người sững sờ. Những
bà chị của Medina-sarote cực lực phản đối. Với họ, việc nàng cưới một kẻ gia
nhân là một hành động khiến họ bị mất giá, có thể khiến họ bị ế chồng. Còn những người anh của Medina-sarote
cũng tỏ vẻ không bằng lòng khi dòng máu của bô lão Yacob khả kính giờ bị pha
tạp với một kẻ thuộc tầng lớp dưới.
Bô lão Yacob rất yêu con gái. Ông ôm Medina-sarote vào lòng
và thủ thỉ: “Con ơi, thằng Bogota
chỉ là một kẻ hoang tưởng, đầu óc chứa đầy những điều kỳ quái. Nó sẽ chẳng làm
nên trò trống gì đâu con”. Medina-sarote thổn thức đáp lời: “Con cũng biết thế.
Nhưng anh ấy giờ đã khá hơn nhiều. Vả lại anh ấy cũng là người khỏe mạnh, lại
tốt tính. Quan trọng nhất là anh ấy yêu con và con cũng yêu anh ấy”
Vụ việc được đưa ra bàn luận rộng rãi. Cuối cùng, một vị danh
y nổi tiếng nhất của thung lũng bước lên phát biểu: “Thằng Bogota thực ra là
một đứa mang bệnh. Chỉ cần chữa trị đúng cách là hắn ta có thể khỏi bệnh. Khi đó,
hắn có thể cưới Medina-sarote”.
Medina-sarote mừng rỡ. Nàng vội hỏi phương cách chữa trị. Vị
danh y tiếp lời: “Bệnh của thằng Bogota
xuất phát từ một thứ mà hắn ta hay gọi là “mắt”. Thằng Bogota nói hắn khác với
mọi người bởi vì hắn có “mắt”. Với “mắt”, hắn có thể “nhìn” thấy được mọi thứ.
Mọi người đều hiểu, những người bình thường như chúng ta làm gì có thứ quái đản
là “mắt” và đều không ai biết “nhìn” là gì. Thế cho nên, chỉ cần triệt bỏ cái
thứ mà thằng Bogota
gọi là “mắt” kia, bệnh của hắn sẽ vĩnh viễn chấm dứt! Nếu chịu chữa bệnh, hắn
hoàn toàn có thể gia nhập cộng đồng của chúng ta một cách trọn vẹn và đủ tư
cách để có thể cưới Medina-sarote làm vợ”.
Xã hội người mù khá dân chủ. Họ cho Nunez một ngày suy nghĩ
để quyết định việc anh có chịu làm phẫu thuật bỏ đi đôi mắt hay không?
*
Nunez bước lên đồi cao. Anh ngắm nhìn bình nguyên xanh mướt
tầm mắt, những ngọn núi tím thẫm xa xăm và bầu trời trong veo với những áng mây
rực rỡ. Anh không hiểu mọi chuyện sẽ ra sao nếu một ngày kia anh chẳng bao giờ
có thể nhìn thấy mọi thứ nữa.
Có tiếng bước chân chậm chạp ở phía sau. Chính là
Medina-sarote. Nàng bước đến bên cạnh Nunez, dịu dàng ngồi xuống và khẽ khàng
hỏi nhỏ: “Bogota,
anh suy nghĩ đến đâu rồi?”
Nunez ngắm nhìn gương mặt đẹp như thiên thần của Medina-sarote.
Anh đưa tay chạm lên bờ má mịn màng, đôi môi hồng dịu và vuốt ve mái tóc mềm
mại của nàng thở dài: “Chính đôi mắt của anh đã cho anh chiêm ngưỡng vẻ đẹp của
em. Chính đôi mắt của anh đã lưu giữ hình bóng yêu kiều của em. Thế mà những kẻ
ngu xuẩn kia muốn anh bỏ đôi mắt của mình đi ư? Như thế làm sao anh có thể nhìn
thấy em được nữa?”
Medina-sarote nhìn Nunez, giọng đầy thương cảm: “Em rất thích
nghe những điều anh nói. Nhưng hãy thành thật với nhau, những điều đó đều xuất
phát từ trí tưởng tượng kỳ dị của anh. Bogota,
hãy chấp nhận chữa bệnh. Rồi anh sẽ cảm thấy mọi thứ dần ổn thỏa”.
Nunez cúi đầu. Ánh tà dương chiếu xuống thung lũng, nhuộm
vàng lên gương mặt và mái tóc của Medina-sarote. Anh nắm lấy tay, ôm ghì chặt
nàng vào lòng rồi nồng nàn hôn lên đôi môi đầy đặn đỏ thắm của nàng. Rồi anh
đứng lên dứt khoát bước đi về phía bức tường. Dường như Medina-sarote linh cảm
thấy tiếng bước chân của anh có điều gì kỳ lạ, nàng bật khóc nức nở.
Nunez cố gắng không quay lại. Anh bỏ chạy. Giữa thung lũng
hoa cỏ đầy sắc mầu huy hoàng, anh thấy cùng với cái xứ sở mù lòa này, và cả
tình yêu của anh nữa, đều chẳng khác gì một cái hố tội lỗi.
Nunez chạy đến bên bức tường. Anh chống tay vào bức tường,
khóc tức tưởi. Rồi anh quyết liệt leo qua bức tường, chạy như điên, chạy mãi về
phía những vách núi dựng đứng. Đến bên vách núi, anh bám vào từng mô đá, leo
lên từng bước một.
Bầu trời đã dần về đêm. Vương quốc người mù chìm dần
trong màn sương mờ ảo. Bên vách đá vẫn là một bóng người đang cần mẫn leo lên
từng bậc, từng bậc. Trên cao, những vì sao vẫn lấp lánh tỏa sáng.
HOÀNG TÙNG
(Lược dịch từ truyện
ngắn: The country of the blind của
nhà văn H.G.Wells)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét