E. C. Osondu là nhà văn
người Nigeria.
Nghề nghiệp chính của anh là viết quảng cáo. Năm 2008, anh theo học tại Đại học
Syracuse và hiện tại đang tham gia trợ giảng tại Đại học Providence, chuyên về
Giới thiệu văn học và Văn minh Phương Tây.
E. C. Osondu nổi tiếng
ở thể loại truyện ngắn kể về cuộc sống đầy khó khăn của những người dân châu
Phi bị chiến tranh và đói nghèo giày xéo. Năm 2010, những truyện ngắn của anh
đã được xuất bản trong một tuyển tập với tiêu đề: “Tiếng nói Hoa Kỳ” – “Voice
of America”.
Truyện ngắn nổi tiếng
và xuất sắc nhất của E. C. Osondu là “Chờ” - Waiting. Truyện ngắn ngày đã giúp
anh dành giải Caine (2009), giải thưởng văn học dành cho những nhà văn châu Phi
trị giá 10.000 Bảng. Meakin Armstrong, biên tập viên của tờ tạp chí Guernica,
nơi đầu tiên đăng tải truyện ngắn này, nói: “Tác giả sử dụng một bút pháp hoàn
toàn không có thủ thuật. Truyện không có kỹ thuật viết đặc biệt. Đơn giản, đây
là một câu chuyện được kể lại một cách chân thành và mộc mạc về những mảnh đời
mà có lẽ chúng ta chẳng thể nào tưởng tượng nổi”.
Chờ
Truyện ngắn của E.C. Osondu – Nigeria
Tôi tên là Orlando Zaki. Orlando được lấy từ vùng Orlando, bang Florida. Đó là dòng chữ có trên chiếc áo phông mà tôi được Hội Chữ thập đỏ phát cho. Zaki là tên thị trấn nơi mọi người tìm thấy tôi trước khi tôi được chuyển về trại tị nạn này.
Giống như tôi, những bạn bè trong trại đều được đặt tên theo những cái áo chúng mặc. Acapulco mặc cái áo có dòng chữ Acapulco. Sexy mặc áo có dòng chữ Hãy nói rằng tôi trông Sexy. Trên áo của Paris có dòng chữ Nhìn Paris rồi chết. Mỗi khi con bé Paris đến gần, tôi thường nhắm mắt lại. Tôi không muốn chết.
Những chiếc áo có thể mang lại phiền toái. Có lần, đứa con gái trong trại mặc một chiếc áo, trên ngực ghi dòng chữ Có sữa hay không? Mà chúng tôi thì đứa nào chẳng thèm sữa? Mấy đứa con trai rình rập bóp vú nó xem thử có chút sữa nào không? Con bé sau đó đã phải vứt cái áo đi. Nhưng chiếc áo cũng có thể đem lại may mắn. London có chiếc áo đề chữ London. Giờ, nó đang ở London. Nó được một gia đình ở đó nhận nuôi. Nó thật may mắn
Chúng tôi cũng đang chờ đợi vận may.
Nếu may mắn, tôi có thể được một gia đình ở Orlando, Florida nhận nuôi.
*
Sơ Nora là người bảo tôi nên bắt đầu viết sách. Sơ nói: “Cách tốt nhất để nhớ là quên và cách tốt nhất để quên là nhớ”. Tôi không hiểu lắm. Có lẽ cũng giống Chúa Jesus, sơ Nora thích nói những điều ẩn dụ lòng vòng. Sơ cho tôi nhiều sách để đọc, lại còn nói rằng tôi có tài kể chuyện.
Sơ bảo tôi có thể trở thành nhà văn.
Tôi mong mình sẽ trở thành một nhà văn.
Cuốn sách đầu tiên sơ Nora đưa cho tôi là “Đợi Godot”. Đây là một vở kịch của Samuel Beckett. Những người trong vở kịch gặp biết bao điều gian khó nhưng họ không mất niềm tin. Họ đợi chờ sự giúp đỡ của Thượng đế.
Giống như những người trong vở kịch, chúng tôi cũng chờ. Không chắc có phải chúng tôi chờ sự giúp đỡ của Thượng đế hay không? Có lẽ Thượng đế đã quên mất mảnh đất này.
Chúng tôi chờ những điều cụ thể hơn.
Chúng tôi chờ những chiếc xe tải mang thức ăn đến. Khi thức ăn bắt đầu được phân phát, chúng tôi bắt đầu một cuộc chiến. Tất cả láo nháo, chen lấn, đánh nhau, cắn nhau, giằng xé, chửi bới, đá đít, giật đồ của nhau rồi chạy.
Rồi chúng tôi chờ xe chở nước. Và khi xe đến, mọi người lại tiếp láo nháo, chen lấn, đánh nhau, cắn nhau, giằng xé, chửi bới, đá đít, giật của nhau từng chút nước ít ỏi.
Thực ra, được đánh nhau vì xe chở nước có lẽ vẫn còn may mắn chán.
Thường thì chúng tôi xách xô chậu ra, chờ đợi, cầu nguyện cho trời đổ mưa.
*
Ngày hôm nay, chúng tôi chờ một điều khác.
Chúng tôi chờ thợ chụp ảnh đến chụp hình chúng tôi. Những bức ảnh rồi sẽ được Hội Chữ Thập Đỏ gửi đến những người ngoại quốc. Sau khi xem ảnh, người ta sẽ quyết định có nhận nuôi chúng tôi hay không?
Thực ra chúng tôi không chỉ chờ đợi thợ ảnh ngày hôm nay. Chúng tôi đã chờ anh ta ba tuần rồi. Ngày hôm nay, chúng tôi tiếp tục chờ đợi nhưng không hiểu liệu anh ta có đến được đây không? Có thể không! Anh ta còn phải đi qua vùng chiến sự.
Kể cả khi đã được chụp ảnh, chúng tôi lại tiếp tục phải chờ những bức ảnh được gửi đi, và lại chờ xem liệu có hồi đáp nào từ những người ngoại quốc hay không?
Tôi tiến lại chỗ thằng bạn Acapulco. Nó đang đứng dưới cái cây duy nhất trong trại. Nó đang bốc một nắm đất, thả trong không khí. Bụi rơi thẳng xuống. Trời không có lấy một cơn gió. Oi bức. Nó hỏi:
-Orlando
này, liệu thợ ảnh có đến được đây trong ngày hôm nay không?
-May ra
-Mày nghĩ liệu có gia đình Mỹ nào sẽ nhận tao làm con nuôi
không?
-Có chứ! Nếu mày may mắn
-Đến Mỹ rồi, bố mẹ tao sẽ biết tin và gửi thư cho tao. Tao sẽ
bảo gia đình mới của tao đón bố mẹ tao qua Mỹ cùng tao luôn.
-Đúng đấy! Khi nào hết chiến tranh, bố mẹ mày sẽ liên lạc với
mày
-Nhưng khi nào chiến tranh mới kết thúc?
-Tao không biết, nhưng chắc sớm thôi
-Nếu chiến tranh sẽ sớm kết thúc, tại sao những người của Chữ
Thập Đỏ lại gửi mình qua Mỹ làm gì?
-Vì họ không muốn chúng mình tham gia Lữ đoàn Thanh niên,
không muốn chúng mình cầm súng, giết người, hãm hiếp và đốt nhà rồi chết mà
chẳng được đến trường.
Acapulco
thường hỏi nhiều câu hỏi. Sơ Nora nói rằng con người nên đặt ra những câu hỏi. Khi
con người biết hỏi mọi người, biết tự hỏi mình, khi đó, con người sẽ không bị
lạc lối.
Tuy nhiên ở đây, không phải ai cũng thích những câu hỏi. Thế
nên thường thì thằng Acapulco
hay bị xa lánh một mình. Cũng có thể có lý do khác nữa. Đó là một bên tai nó
hay chảy mủ, bốc ra mùi trứng thối. Một con ruồi bay quanh tai nó, tìm cách đậu
lên chỗ mủ đang mưng. Acapulco
vừa xua con ruồi, vừa nói với tôi:
-Ước gì tao có một con chó
-Có chó để làm gì?
-Tao sẽ đứng cạnh con chó khi chụp ảnh để gửi đi Mỹ. Người da
trắng thích chó lắm.
-Họ thích người hơn chứ?
-Có thể họ thích những người thích chó.
-Nghe nói là ở Mỹ, ngôi nhà nào cũng có hồ bơi cho người và
chó.
-Tao thích bơi ở hồ bơi hơn ở biển. Tha hồ nước. Nước ngọt và
sạch. Có thể uống thỏa thích.
Tôi im lặng.
Kiếm đâu ra chó bây giờ?
*
Trước đây, quanh trại có nhiều chó. Khi đó, người với chó là
bạn, là đồng minh. Người và chó sống dựa vào nhau. Lũ chó bảo vệ cho những
người sống trong trại. Còn mọi người cho lũ chó thức ăn. Có khi là thức ăn
thừa. Nhưng thường là thức ăn theo kiểu khác. Mỗi khi lũ trẻ con đi ị, những
người phụ nữ lập tức gọi lũ chó đến. Chúng liếm đít lũ trẻ sạch bong rồi ăn hết
chỗ phân thải. Ngày đó, đám phiến quân còn thỉnh thoảng tìm đến trại. Lũ chó
đánh hơi được, lập tức sủa báo hiệu để mọi người chui xuống hầm trốn. Đám lính
phiến quân đi qua, không biết rằng chúng tôi đang ẩn nấp dưới hầm.
Nhưng có một lần, người của Hội Chữ Thập Đỏ không mang thức
ăn đến trong suốt hai tuần liền. Phiến quân tấn công khiến máy bay chở hàng cứu
trợ không thể hạ cánh. Đói. Chúng tôi lừa gọi mấy con chó đến, bắt lấy chúng
rồi giết thịt. Lũ chó rên rỉ nhưng dường như hiểu rằng đó không phải do lỗi của
chúng tôi. Sau khi ăn thịt chó cầm hơi, vài ngày sau, xe chở lương thực của Hội
Chữ Thập Đỏ cũng đến. Chúng tôi gọi lũ chó cho bọn chúng chút thức ăn thừa. Chúng
tỏ vẻ cảnh giác hẳn nhưng vẫn đến.
Lần khác, lương thực không đến trại trong một thời gian dài. Mọi
người đói lả. Chúng tôi gọi lũ chó đến. Dường như linh tính mách bảo, chúng
không tiến gần lại người nữa, chỉ lởn vởn ở xa. Chúng tôi liền đuổi theo bắt lũ
chó. Chúng chạy toán loạn nhưng mọi người vẫn đuổi kịp, tóm được mấy con chó.
Lũ chó bị bắt tru lên những tiếng thê thiết, mắt vằn máu. Chúng không muốn
chết! Nhưng chúng tôi cũng thế. Chúng tôi không muốn chết đói. Mọi người làm
thịt lũ chó và ăn.
Sau lần đó, đàn chó biến đi đâu mất.
Một hôm, có đứa nhỏ đang ngồi ị, bỗng lũ chó từ đâu xuất
hiện. Người mẹ tưởng rằng chúng đến ăn phân trẻ con như bình thường. Ai ngờ, lũ
chó bắt đầu tấn công thằng bé. Người mẹ hoảng hốt kêu thét báo động. Mọi người
chạy ùa ra. Không kịp! Thằng bé đã bị lũ chó xé xác thành từng mảnh nhỏ. Khi
mọi người chạy đến, cảnh tượng thật kinh hoàng. Những mảng xương thịt toe toét
máu của thằng bé đang bị những hàm răng sắc ởn của lũ chó nhai nhồm nhoàm. Đám
đàn ông lập tức lao vào đuổi, giết chết mấy con chó nhưng không thể cứu được
đứa bé. Sau đó, người ta còn đặt bẫy và săn giết được mấy con chó nữa.
Bây giờ, chẳng còn con chó nào.
Người ta bảo rằng, đó là tại vì chiến tranh.
Nhưng con người gây ra chiến tranh.
Hay là mọi chuyện đều tại con người?
*
Tôi định đi hỏi sơ Nora xem nguyên nhân là tại ai? Acapulco thấy tôi nhấp
nhổm. Nó dường như biết được ý định của tôi. Nó bảo, đừng có hỏi làm gì cho mất
công. Nó nói đúng. Mọi người trong trại bây giờ không thích nhắc lại chuyện về
lũ chó.
Tôi nhìn vào hoang mạc hút tầm mắt. Không có lấy một chấm đen
chuyển động. Tôi bảo Acapulco:
-Chờ vô ích thôi, chắc hôm nay thợ ảnh không đến được đâu. Tao
không nhìn thấy gì. Không nghe thấy gì.
Acapulco
lúc lắc đầu:
-Tao thì nghe thấy một cái gì đó. Hình như trong óc tao có
một viên đạn thì phải?
-Làm gì có chuyện đó. Nếu trong óc mày có đạn, mày đã chết
nghẻo rồi.
-Không! Hình như viên đạn này đi qua cái tai đau của tao. Tao
nghe thấy những tiếng nổ trong tai. Cả những tiếng người nữa. Họ hét: “Thằng
con hoang, hôm nay chúng tao sẽ chui ra và uống máu mày”. Tao sợ lắm. Mỗi khi
thấy những người phụ nữ đun củi, viên đạn trong tai tao lại nóng lên, nổ đùng
đoàng.
-Mày nên cố tìm cách mà đến Mỹ. Ở đó, người ta không đốt củi,
họ dùng nồi điện.
-Sao mày biết được? Mày đã bao giờ đến đó đâu?
-Tao đọc nhiều sách. Trong sách có những thông tin như thế
-Tao chỉ thích đọc sách có nhiều tranh ảnh thôi.
-Đó là sách dành cho lũ trẻ con
-Tao chán chuyện chụp ảnh rồi gửi ảnh ra nước ngoài lắm rồi. Những
đứa đến đây cùng với tao, phần lớn chúng nó đã tìm được gia đình nhận nuôi. Sao
họ lại không nhận tao nhỉ? Hay tại họ không thích khuôn mặt của tao?
-Thực ra những đứa khác chỉ may mắn hơn mày thôi. Mày cứ chờ,
biết đâu…
-Chờ đến bao giờ? Đôi khi tao muốn tham gia Lữ đoàn Thanh
niên. Nghe nói là đám lính đó được hút thuốc phiện tha hồ, được uống bia thoải
mái. Nhưng tao hơi sợ vì họ bắt mình phải thề sẽ không được nương tay trước bất
kỳ ai, kể cả là bố mẹ mình.
-Sơ Nora sẽ giận lắm nếu bà nghe thấy mày nói ra điều này
đấy. Sơ và những người trong Hội Chữ Thập Đỏ đang cố tìm gia đình nhận nuôi bọn
mình. Phải kiên nhẫn chờ đợi chứ.
-Tao chỉ mong sớm có gia đình, sớm có mẹ. Chỉ mong được ăn mà
không phải tranh giành nhau. A, mà có khi đến bữa ăn rồi đấy.
*
Chúng tôi đi về phía lán ăn. Đám khói hiu hắt trên mái tôn
nóng bức. Tôi ngửi thấy mùi cơm nắm dawa. Lúc nào cũng là món cơm nắm dawa,
cũng là những con ruồi bay vo ve, cũng là những chiếc bát nhôm méo xẹo. Thế mà
ngày nào chúng tôi cũng phải đánh nhau vì những thứ đó. Không nhanh, không
tranh nhau thì chẳng có gì mà ăn. Tôi vỗ vỗ vai Acapulco:
- Tao và mày phải giúp nhau đánh bọn khác mà giành thức ăn
đấy nhé.
Chúng tôi bước vào trong lán. Những người phụ nữ bắt đầu đặt
những nắm dawa lên
những đĩa nhôm rẹo rọ. Đầu bếp như thường lệ nói:
-Không
được chen lấn, đánh nhau nghe chưa?
Tuy
nói vậy nhưng vẻ mặt của gã đầu bếp lại khác. Đó là bộ mặt thỏa mãn như một gã
đàn ông đang được hai cô gái đẹp giành giật bằng cách tự lột truồng nhau ra.
Với lũ chúng tôi, đó là dấu hiệu bắt đầu cần phải chen lấn, tranh nhau, giằng
đồ của nhau. Dawa rơi vương vãi ra sàn nhà. Mấy đứa tranh thủ ngồi
thụp xuống bốc lấy cho vào mồm. Hỗn loạn. Chí chóe. Gã đầu bếp kêu la, quát
mắng, chửi rủa nhưng không ăn thua.
Tôi và Acapulco
chen chúc rồi cuối cùng cũng vớ được hai cục dawa và ít cháo. Chúng tôi lập tức
chuồn vội ra ngoài. Hai đứa nhồm nhoàm nhai thức ăn. Tôi thấy mấy con ruồi ở
tai Acapulco vo
ve đậu xuống đĩa của nó. Acapulco
không để ý. Bàn tay của nó tóm lấy con ruồi cùng chỗ thức ăn nhét thẳng vào
mồm. Tôi định bảo nó nhưng không kịp. Vả lại cũng không nói được khi mồm tôi
cũng đang đầy thức ăn.
Bữa ăn đã xong. Tôi bảo Acapulco
mang đĩa về trả lại nhà bếp. Không cần rửa đĩa vì chúng tôi đã liếm đĩa sạch
bong.
Và chúng tôi lại tiếp tục ngồi chờ dưới gốc cây…
HOÀNG TÙNG (Phỏng dịch)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét