Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Truyện ngắn: Những mảnh đời xóm Dạt


NHỮNG MẢNH ĐỜI XÓM DẠT
Tôi là một nhà văn, nghĩa là một người làm nghề nói dối.
Haruki Murakami
Có lẽ kể cả những người đã sống nhiều năm ở thành phố ngàn năm tuổi này cũng ít biết đến cái xóm nhỏ tên là Dạt. Xóm Dạt nằm giáp ngoại thành, tít bên bờ con sông, ngay gần bãi rác thành phố suốt ngày bốc mùi thối khoẳm.
Tại sao xóm lại có tên là Dạt? Thực ra chẳng ai quan tâm lắm. Trừ lão Sầm “say” ra, hình như ai cũng chỉ coi xóm Dạt là chỗ ở tạm mà thôi.
Lĩnh cũng chỉ coi xóm Dạt là chỗ ở tạm.
Chuyện của Lĩnh
Lĩnh dọn nhà đến xóm Dạt. Chiếc xe xích lô chở đầy sách vở lọi cọi đi qua quán nước bà Bành “béo”. Thằng Ngàn “nghiện” cầm chén chè lên hớp cạn rồi ngáp sái quai hàm, chửi đổng: “Đ.M. Cái xóm Dạt này sao lại nảy nòi ra một cái thằng trí thức đểu ở đâu rạch giời rơi xuống thế này!” Lão Sầm “say” nhấc điếu thuốc lào lên rít sòng sọc, thả khói nheo nheo mắt nhìn. Cúc “cave” thì gãi gãi đùi cành cạch: “Thế cũng hay! Bọn trẻ con xóm này còn có người tử tế để làm gương chứ”
Thằng Ngàn quay lại nhìn con Cúc lẩm bẩm chửi: “Gương với lược cái mẹ gì bọn đấy! Càng lắm chữ thì càng thối. Làm được cái đếch gì cho đời!” Con Cúc ngứa miệng: “Thế mày thì làm được cho đời?”. Thằng Ngàn lừ mắt vằn tia máu: “Mẹ mày! Thích nói đểu à? Bố mày tát cho một phát rụng răng bây giờ”. Lão Sầm với cả bà Bành phải đứng lên can hai đứa. Con Cúc hậm hụi im lặng. Nói thêm, cái thằng cục tính như chó đó nó đánh lại đánh cho, chỉ tổ thiệt thân.
 Mấy tuần sau, bà Bành “béo” te tái thông báo: “Này, cái cậu Lĩnh mới chuyển đến ý! Hóa ra là nhà văn đấy!” Quán nước của bà chẳng khác gì trung tâm truyền tin. Chẳng mấy mà cả cái xóm Dạt đều biết Lĩnh là nhà văn. Cái hôm Lĩnh bước ra cái quán đấy ngồi uống nước, cũng là để ngoại giao, biết thêm người nọ người kia, thằng Ngàn “nghiện” vỗ vai nó: “Này! Cái đám nhà văn bọn mày toàn viết về truyện trên trời, sao không viết về bọn tao đây này?” Lĩnh ngã ngửa người: “Ô, ai bảo anh em là nhà văn?”. Bà Bành “béo” cười giả lả: “Mấy lần tôi thấy có giấy chuyển tiền bảo cậu lấy nhuận bút của báo đấy là gì?”
Lĩnh kêu khổ thầm trong bụng! Nó chỉ là một công chức quèn, thỉnh thoảng có hứng viết vài truyện được báo đăng chứ có phải là nhà văn đâu. Nó gắng giải thích. Lão Sầm “say” ngần ngừ: “Cậu có truyện đăng trên báo thì đúng là nhà văn rồi! Mỗi tội cậu trông không râu ria như đám nhà văn thực sự”. Thằng Ngàn chen vào: “Mày việc đếch gì phải khiêm tốn. Này! Nhớ viết truyện về tao đấy nhé!” Lĩnh cười gượng gạo. Thằng Ngàn gãi ngực sồn sột: “Mẹ! Không phải nói phét đâu. Đời tao viết đến cả mấy cuốn tiểu thuyết cũng chả hết chứ nói gì là mấy cái truyện cỏn con. Nhưng mà này, nhớ là nếu được báo đăng là phải chia đôi nhuận bút đấy nhá!”   
Thằng Ngàn
Thằng Ngàn “nghiện” mồ côi bố mẹ từ nhỏ. Hắn sống lay lắt quanh khu bến xe Lương Yên. Người hắn gầy ỏm như cò hương nhưng hai mắt lúc nào cũng liến láo sắc như dao cạo. Hàng ngày hắn cứ chen vào giữa đám khách đông đúc, giả vờ đi xe cùng. Nhà ai hở ra cái gì là hắn thó nhanh như chảo chớp. Bao nhiêu lần bị công an bắt nhốt “nuôi muỗi” rồi mà hắn chứng nào tật nấy. Những người biết mặt đều lánh hắn như lánh hủi.
Đợt này công an làm chặt ở bến xe. Thằng Ngàn dặt dẹo về quanh mấy khu lao động. Chiều hôm đó, lúc đang ăn trộm cái xe đạp thì bị người dân phát hiện. Hắn bán sống bán chết chạy thoát. Lang thang đến xóm Dạt, thấy một căn lều tạm bên sông, hắn vội chui vào lục lọi. Căn lều chỉ có độc một cái giường tồi tàn, quần áo bừa bộn đượm mùi nước hoa rẻ tiền. Góc chân giường có một bát cơm còn vung vãi tý cơm nguội. Hắn nhuồm nhoàm nhét vào mồm nhai trệu trạo.
Có tiếng xe máy chạy đến xình xịch. Rồi tiếng chân người lạo xạo. Thằng Ngàn vội tìm lẻn ra đằng sau căn lều tìm chỗ nấp. Hé mắt nhìn vào qua lỗ gỉ của tấm tôn liếp, thằng Ngàn thấy một đôi trai gái kéo nhau vào. Đứa con gái lần công tắc bật cái đèn đỏ quạch lên rồi cởi toẹt quần áo ra nằm ệch lên trên giường giạng chân ra giục giã: “Nhanh lên! Nhanh lên nào!” Gã trai liến láo nhìn quanh: “Giường chiếu gì mà hôi rình thế này! Mà liệu có người xung quanh không đấy?” Đứa con gái lắc lắc đầu: “Làm gì có ai. Lằng nhằng mất thì giờ quá. “Tàu nhanh” chỉ được ba mươi phút thôi đấy”.
Gã trai nhanh chóng chồm lên người ả gái. Cả hai cuốn lấy nhau rên ư ử. Thằng Ngàn đứng bên ngoài nhìn, nuốt nước bọt ừng ực. Đứa con gái thở hổn hển: “Ra nhanh nhanh lên! Làm gì mà lâu thế?” Gã trai gằn gằn giọng: “Mẹ cái con cave này! Cứ giục thế là bố mày mất tập trung. Ra thế đéo nào được?” Cái giường kêu cót két cót két từng hồi.
Bỗng gã trai tru lên như chó sói rồi đổ vật xuống. Ả cave ráo hoảnh: “Xong rồi! Rút ra đi”. Cả hai mặc quần áo vào. Gã trai rút ví ra đưa tiền cho ả cave. Ả cầm tiền rồi thét lên giọng the thé: “Thế này là thế nào? Đã bảo là tầu nhanh hai trăm cơ mà?” Gã trai cười khả ố: “Hai trăm là bao cả tiền phòng. Mày nhìn cái ổ lợn này mà cũng là phòng à? Tao trừ năm chục tiền phòng!” Ả gái xỉa xói vào mặt hắn trai: “Mẹ mày! Mày định ăn quỵt tiền của bà đấy à? Tao nói cho cái thằng mặt l… nhà mày nhá”.
“Bốp!” Ả cave ăn một cái tát nổ đom đóm mắt. Ả cũng không phải loại vừa, lập tức cầm guốc phang vào mặt gã trai tóe máu. Gã trai nổi cơn điên, chồm đến vật ả cave xuống, bóp cổ khiến ả lồi cả mắt: “Đ.M con cave này! Mày thích chết bố mày cho mày chết!” Ả cave cổ họng khọt khẹt ặc ặc, giẫy đạp liên hồi nhưng không thể nào thoát khỏi hai kìm tay hộ pháp của gã trai.
Bỗng “Choác!” Gã trai ôm đầu rú lên. Thằng Ngàn vác một viên đá to đứng đằng sau phang thẳng vào đầu khiến gã trai be bét máu. Gã đổ rập người xuống như cây chuối bị phạt gốc, răng nghiến chặt vào nhau sùi bọt mép, mắt trợn ngược giật giật mấy cái rồi nằm im. Thằng Ngàn và ả cave định thần lại rồi đem tấm ga giường gói xác gã trai lại đem vứt xuống sông.
Từ đó thằng Ngàn “nghiện” về ở xóm Dạt, vừa làm xe ôm, vừa làm bảo kê, vừa làm chồng của Cúc “cave”. Hai đứa có với nhau một đứa con. Chẳng biết tên thật là gì. Mọi người chỉ quen miệng gọi là con Tý.
Thằng Ngàn nhấc chén chè lên uống cạn rồi hừm hừm giọng: “Thế nào? Chuyện của tao có đăng báo được không?” Lĩnh cười: “Em cũng không biết nữa. Em chuyên viết về đề tài tình yêu”. Thằng Ngàn khạc giọng rồi nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất: “Đ.M. Tình yêu là cái chó gì cơ chứ. Toàn là láo toét. Bọn có tý chữ chúng mày là chuyên gia ăn gian nói dối. Toàn viết về những cái đâu đâu. Chuyện của tao thực trăm phần trăm thế chẳng bằng vạn lần mấy cái thứ tình yêu vớ vẩn mày viết ý chứ?”
Lĩnh cười gượng gạo: “Vâng, em sẽ cố!” Thằng Ngàn cười hơ hơ: “Thế chứ. Mà này, cái đoạn tao đập chết thằng chơi gái vứt xuống sông ý, mày bịa kiểu khác đi nhé. Nhỡ công an lại đọc truyện của chú mày rồi lại lần ra tao thì lôi thôi to”. Đoạn thằng Ngàn phủi đít đứng dậy hất cằm về phía bà Bành: “Thằng em này trả tiền nước của tôi mới cả mấy khoản hôm trước tôi nợ bà nhá”. Rồi hắn quay về phía Ngàn: “Coi như tao trừ vào tiền nhuận bút đăng báo trước. Nhớ là đăng báo có tiền là phải chia cho tao thêm đấy nhá!”
Sốt đất   
Đận này xóm Dạt có vẻ nhộn nhịp hơn hẳn. Dân tình ở đâu đổ về đây ngồi quanh quán của bà Bành “béo” hỏi han đất cát. Quán nước khách khứa cứ gọi là nườm nượp. Nghe đồn bảo có cái dự án gì gì đó xây dựng thành phố ven sông. Đất ven sông sẽ thành đất vàng nhá. Chỗ này đồn. Chỗ kia đồn. Cả xóm Dạt cứ chộn rà chộn rộn.
Bà Bành làm một cái biển ghi: “Môi giới nhà đất” treo ở quán nước. Nhiều người đến hỏi lắm. Thỉnh thoảng bà la cà vào nhà Lĩnh: “Vợ chồng cô cậu có định bán nhà không?” Lĩnh cười xòa: “Bán nhà cháu biết đi đâu?” Bà Bành giả lả: “Cô cậu là gia đình trí thức, ở chỗ này không thấy bí bách à?”.
Lĩnh im lặng. Thực ra thì cũng có bí bách. Từ hồi về sống ở đây, Lĩnh đã bao giờ dám mời bạn bè cùng cơ quan về nhà chơi đâu? Nó âm thầm ngại rằng nếu đến cái nơi lụp xụp này, mọi người sẽ nhìn nó bằng con mắt khác. Vả lại, hai vợ chồng nó cũng dự tính năm nay sẽ sinh con. Sợ rằng con cái lớn lên ở đây cũng bị sẽ bị ảnh hưởng môi trường không tốt.
Nhưng tính thì tính thế thôi. Đồng lương còm của hai vợ chồng Lĩnh gom lại cũng chẳng đủ tiền mua được chỗ khác. Bà Bành nhìn sang ngôi nhà lụp xụp bên cạnh thì thào: “Này, không biết nhà thằng Ngàn có định bán không nhỉ?” Lĩnh gục gặc đầu: “Cháu cũng không rõ lắm”. Bà Bành nói: “Bọn nó thì cần gì chỗ ở! Cứ lang thang đi đâu suốt. Con Tý cả ngày cứ luẩn quẩn loanh quanh quán nước nhà tôi. Cậu lúc nào sang hỏi thử xem. Nhà nó mà bán đi, cậu lại chẳng có hàng xóm tử tế hơn nhiều ý chứ. Cứ sang mà hỏi một câu! Hàng xóm láng giềng với nhau, mất gì đâu?”
Lĩnh cười. Nó nhớ lại cái lần sang nhà hàng xóm…
Cúc “cave”
Đợt đó, vợ Lĩnh phải đi công tác ngoại tỉnh mấy hôm. Lĩnh ở nhà một mình. Cũng tốt. Có thời gian cô đơn tĩnh lặng để viết lách âu cũng là một cái thú. 
Chiều tối…
Lĩnh đang lục đục nấu mỳ tôm ăn cho qua bữa thì Cúc “cave” sang nhà gõ cửa. Lĩnh mặc vội cái áo vào ra hỏi có chuyện gì. Ả nhờ Lĩnh sang nhà sửa hộ cái bóng điện.
Lĩnh cầm đèn pin chạy sang. Cái bóng đèn gắn ở góc tường cháy trông đen xì. Lĩnh nói: “Chắc là cháy bóng rồi chị ạ”. Cúc nheo nheo mắt: “Chưa chắc đâu. Mấy lần trước nó cũng bị thế này. Thấy lão Ngàn lay lay là nó lại sáng”. Lĩnh hơi ngần ngừ. Cúc nói thêm: “Chú trèo lên xoáy lại cái đui bóng thử xem. Cái lão Ngàn mấy hôm nay không hiểu chết dấp ở đâu mà không thấy về. Chồng mới cả con!” Lĩnh chưa kịp trả lời thì Cúc đã kéo ghế kê bên dưới cái bóng điện, ánh mắt nhờ vả.
Lĩnh chạy về nhà lấy cái bút thử điện rồi leo lên ghế kiểm tra đui bóng đèn. Cúc đứng dưới giữ ghế. Đang xoáy xoáy lại cái bóng điện, bỗng Lĩnh thấy hạ bộ nóng ran. Ả đang ấp mặt vào hạ bộ của Lĩnh. Lĩnh cứng đờ người, kêu lên: “Chị làm gì thế?” Ả cười hí hí giọng mơn trớn: “Này, chú đã được vợ mút b…. cho bao giờ chưa? Có thích không, chị chiều. Không sướng không lấy tiền”
Lĩnh vội lẩy bẩy bước xuống khỏi ghế. Cúc tóm chặt lấy Lĩnh đẩy mạnh xuống giường. Quần áo ả rơi xuống lả tả.
Bỗng có tiếng ho lụ khụ của lão Sầm “say”: “Cúc ơi! Đâu rồi? Mày đi đâu để con Tý ra tít bờ sông chơi này”. 
Cúc “cave” lầm bầm chửi rồi lăn xuống đất mặc áo vào giọng rít lên: “Con ranh kia. Ai cho mày đi chơi lang thang hả? Rồi mày lại giống cái thằng bố mày thôôôiiiii…!” Lĩnh trốn trong bóng tối, chờ cho lão Sầm đi khuất rồi rảo vội về nhà.
Thỉnh thoảng ngồi gác chân ở quán nước bà Bành “béo”, thấy Lĩnh đi ngang qua, Cúc “cave” lại chẹp chẹp miệng: “Mẹ! Cái loại liệt dương. Hãm!” 
Chuyện lão Sầm “say”
…Bà Bành bước ra cửa, ngoảnh đầu nói với lại: “Vợ chồng nhà nó mà định bán nhà thì báo với tôi một câu nhá. Mọi việc mà suôn sẻ tôi chia cho ít tiền môi giới gọi là lộc lá”.
Lĩnh bảo bà Bành sao không hỏi lão Sầm “say” ý? Lão ở một thân một mình. Cái lều thì bé tí. Mảnh đất xung quanh chẳng để làm gì! Sao không bán bớt đi mà tiêu. Bà Bành thở dài: “Hỏi rồi! Cái lão hâm dở ấy có cần tiền đâu mà mua mới cả bán?”
Hồi Lĩnh mới gặp lão Sầm “say”, nó tò mò: “Cụ năm nay bao nhiêu tuổi rồi?”. Lão Sầm cười móm mém: “Già lắm rồi. Chẳng nhớ được đâu”.
Đúng là rất khó đoán được tuổi thực của lão Sầm. Nhìn mặt lão thì thấy già. Nhưng nhìn cách lão uống rượu uống nước lã, đốt thuốc lá như đốt rơm, thoăn thoắt giăng “tời” bắt cá thì có lẽ đến thanh niên cũng phải chịu thua. Kể cũng lạ. Một mình ở cái lều bốn bề trống hoác với độc một manh áo cộc mà lão vẫn sống dặt dẹo từ năm này qua năm khác, chẳng biết ốm đau là gì. Có người can, bảo lão phải bớt rượu chè thuốc lá đi, lão chỉ tặc lưỡi: “Chết là hết! Sống làm đếch gì cho khổ?”
Bà Bành nghe thấy chỉ trề môi: “Cái lão say ấy chán sống từ xưa rồi!”
Trở lại cái thời “từ xưa”, thời mà lão Sầm còn chưa “chán sống”. Khi đó lão Sầm “say” mới chỉ là anh Sầm, chưa trôi dạt đến xóm Dạt. Hai vợ chồng Sầm sống ở ven sông. Vợ sắp đẻ, Sầm cố đánh cá nhiều hơn để có tiền sửa lại lớp nhà. Nhưng tiền bán cá chẳng được bao nhiêu. Chẳng biết bao giờ mới có thể sửa được nhà. Thế rồi cơ hội đến.
Năm đó, trời lũ lớn. Nước từ đâu ở thượng nguồn đổ về như trút. Dòng sông đỏ nghẹt trôi bao nhiêu là gỗ. Người ta bảo đó là gỗ bọn lâm tặc chặt rừng trên thượng nguồn bị nước cuốn trôi về đây. Sầm vớt được mấy chục khúc gỗ lim đã được xẻ ra vuông vắn. Hết trận mưa, anh đem đi bán được mấy chỉ vàng. Thêm tý nữa là đủ tiền làm nhà. Sầm chỉ mong ngóng, trời mưa to trận nữa thì tốt.
Thế rồi mưa thật. Mưa to. Mưa thối đất thối cát. Dòng sông lại ứ lên, bọt nước trắng xóa gào thét ầm ào như một con thuồng luồng khổng lồ. Sầm nghe dòng nước xoáy ùng ục mà mở cờ trong bụng. Anh lập tức đội mưa ra bờ sông chờ gỗ. Nhưng lần này không chỉ có anh. Bọn thanh niên cùng xóm thấy lần trước Sầm kiếm đủ nên giờ cũng đổ ra sông cùng vớt củi. Mấy súc gỗ đẹp vuông vắn trôi về nhưng Sầm chậm chân hơn, toàn bị đám thanh niên kia tranh lấy mất.  Cả buổi sáng chẳng được tý gì, Sầm nhìn mấy thằng thanh niên vần gỗ lên bờ mà hậm hực.
Xa xa phía thượng nguồn ánh lên một màu vàng. Sầm lấy tay khum khum che nước mưa rồi nheo mắt nhìn. Rồi anh quay sang hét to với đám thanh niên: “Súc gỗ kia của tao đấy nhá! Cấm thằng nào tranh!”. Súc gỗ trôi lại gần. Một màu vàng rượm lấp ló dưới làn nước tỏa bọt trắng xóa. Đúng là gỗ vàng tâm. Trúng quả rồi. Súc gỗ quý này bán đi thì được ối tiền, tha hồ làm nhà. Sầm hít một hơi rồi nhao xuống dòng nước xiết.
Bỗng trên bờ mấy đứa thanh niên hét lên: “Có người trôi sông! Có người trôi sông!”. Sầm ngoái nhìn. Đám thanh niên chỉ một cái bóng trắng chấm chới lúc nổi lúc chìm đang “giã gạo” phía xa xa. Bơi ra đấy thì súc gỗ vàng tâm này trôi mất. Sầm hét lên: “Tao lấy gỗ! Bọn mày xuống cứu người đi!” Rồi anh vung tay như một con cá kình bơi đến lái khúc gỗ theo dòng nước vào bờ. 
Kéo được khúc gỗ nặng trịch lên bờ, mắt Sầm trắng giã vì mệt. Đám thanh niên kia đã vớt được người mang lên bờ trước. Vừa thở vừa leo lên bờ, Sầm thấy đám thanh niên nhìn mình lạ lạ. Ngước lên phía mọi người đang quây tụ, anh thấy cái bóng nằm dài thượt trên nền đất như quen quen. Cái áo quen quen. Mái tóc quen quen. Anh vội chạy lại. Đúng là vợ anh rồi.
Từng xoáy nước há hoác miệng ra kêu oàng oạc. Mưa cào dát mặt khiến hai mắt Sầm đỏ ngầu. Mọi người nhìn Sầm lắc lắc đầu thì thào khe khẽ: “Thằng này không vớt vợ lại đi vớt gỗ”, “Tham thì chết con ạ”, “Cái loại chồng khốn nạn. Vợ chết đuối không vớt!” Dòng sông vẫn gào thét. Sầm gục đầu lên cái bụng gồ cao cứng ngắc của vợ tru lên rạc giọng. Bỗng mặt đất lung lay. Nước xoáy vào doi đất lở ầm ầm. Mọi người vội chạy lùi lại. Các xác của vợ Sầm rơi tuột xuống sông. Sầm vẫn ôm xác vợ không rời. Mọi người gào gọi bảo Sầm bơi vào bờ. Anh không trả lời, buông xuôi mặc cho dòng nước cuốn đi phăng phăng.
Con nước cuốn Sầm trôi về xóm Dạt. Anh chọn một doi đất, dựng mội cái lều sống vật vờ bên dòng sông. Ngày tháng qua đi, anh Sầm trở thành lão Sầm “say”. Thỉnh thoảng ngồi chỗ quán nước bà Bành “béo”, lão Sầm mặt đỏ như gà chọi ngầy ngật hơi rượu, giọng gầm gừ: “Cái tên xóm Dạt này là do tao đặt ra chứ ai! Mẹ! Đặt tên quá chuẩn luôn. Đúng chỗ bèo dạt mây trôi nhá!”
Cái Tý
Buổi tối, Lĩnh tha thẩn ngồi vào bàn viết. Thằng Ngàn “nghiện” nói thế mà đúng. Đọc lại cái chuyện về tình yêu mình viết bữa trước, Lĩnh thấy sao mà nó nhạt toèn toẹt, chữ nghĩa cứ bở bùng bục. Lĩnh lấy một tờ giấy trắng mới viết lên hai chữ: “Xóm Dạt”. Hay là mình lấy tên xóm là tiêu đề cho truyện mới của mình? Rồi Lĩnh hăm hở viết. Nào là chuyện về Ngàn “nghiện”, chuyện về lão Sầm “say”…
Đang viết thì có tiếng “E ò e! E ò e!” nghe như tiếng xe cấp cứu. Nhưng không phải xe cấp cứu. Đó là tiếng của cái Tý, đứa con chung của Ngàn “nghiện” và Cúc “cave”. Con bé đang ngồi bên sân nhà nó, chơi với đống búp bê đất sét. Giờ này chắc bố nó lại chở mẹ nó “đi làm” rồi. Bỗng nhiên con bé lại hét lên: “Ki ai! Chiu chiu! Đỡ chưởng của ta này” Lĩnh bịt tai, nhìn lại vào trang giấy. Chữ nghĩa bay đi đâu mất. Chỉ còn cái tên truyện “Xóm Dạt” đang ưỡn ẹo như trêu ngươi trước mắt. Lĩnh vò mạnh tờ giấy đang viết dở ném toẹt xuống đất.
Con Tý suốt ngày lủi thủi ở nhà một mình, nó nghĩ ra đủ mọi trò chơi. Nó hay ra khu bờ sông vì ở đó có nhiều đất sét. Nó lấy đất sét về nặn thành hình người rồi lấy giẻ rách về làm quần áo, lấy cỏ khô làm thắt lưng cho lũ búp bê đất sét. Rồi nó nghĩ ra đủ chuyện trên giời dưới đất. Nhẹ nhàng thì công chúa hoàng tử, lúc thì Tiêu Phong, Quách Tĩnh, chưa kể còn có cả Harry Potter và “Những nàng công chúa nổi tiếng” của phim Hàn Quốc nữa.
Có lần Lĩnh nghe thấy một đoạn “kịch bản” của con bé mà phì cười. Tiêu Phong: “Trời, ta đã vô tình dùng Hàng Long Thập Bát chưởng đánh nàng bị thương rồi” A Châu: “Em không trách chàng đâu. Chàng đừng buồn. Hức! Hức! Em chết đây! Chàng ở lại bảo trọng”. Xe cấp cứu e ò e chạy đến “Có anh em nhà bác sĩ Kim Giang Sun đến chữa bệnh đây”…
Lão Sầm “say” thấy con Tý cứ lủi tha lủi thủi, thỉnh thoảng lão cứ tạt qua cho con bé con cá, miếng bánh. Có lần gặp Lĩnh, lão than phiền: “Bố mẹ con Tý này cứ đi suốt ngày thế này, chẳng chăm lo gì, khéo con bé hỏng mất!”
Đoạn kết
Cúc “cave” bảo muốn bán nhà. Bà Bành dẫn khách đến xem. Đang xem nhà thì thằng Ngàn về. Nghe thấy hai chữ “bán nhà”, thằng Ngàn lập tức trừng mắt chửi khách té tát.
Con Cúc cự nự. Thằng Ngàn chạy ra ngoài vác ngay một khúc gậy đuổi đánh. Bà Bành dẫn khách chạy tán loạn. Con Cúc bị vụt sưng cả mặt, tru tréo chỉ mặt thằng Ngàn: “Nhà của tao, tao thích thì tao bán đấy. Làm sao?”. Thằng Ngàn mắt đỏ ngầu nhổ nước bọt phì phì: “Đồ chó. Không có bố mày thì mày chả chết thối xác rồi!”. Con Cúc lăn lộn dưới đất: “Thà mày để tao chết đi còn hơn. Sống thế này mà là sống à? Chồng như mày mà là chồng à?” Thằng Ngàn mắt trợn ngược: “Đ.M con phò này. Mày khinh ông à?”
Thằng Ngàn lao vào trong nhà. Hắn cầm bếp dầu và can xăng vứt thẳng lên cái giường lổn nhổn quần áo. Xăng văng ra tung tóe. Xoẹt! Hắn châm lửa rồi đi ra cửa. Ngọn lửa bùng lên cháy rừng rực. Con Cúc hét lên định lao vào trong nhà dập lửa. Thằng Ngàn đạp con Cúc ngã lăn ra đất. Mọi người trong xóm Dạt ào đến. Thằng Ngàn cầm con dao rựa trợn mắt: “Nhà của tao! Tao thích thì tao đốt. Đứa nào vào dập lửa tao chém chết!”
Bỗng bên trong nhà có tiếng khóc thét the thé. Con Tý. Con bé ngủ vùi trong góc nhà, bị kẹt lại. Cúc “cave” hét lên kinh hoàng. Thằng Ngàn rụng rời cả chân tay quỵ xuống. Ngọn lửa lan vào đám đồ gỗ cháy hừng hực nổ lép bép. Con Cúc lao đến gào gọi con. Thằng Ngàn ngước nhìn mọi người ánh mắt cầu cứu.
Lão Sầm vác theo một cái chăn ẩm tách đám đông chạy đến trước mặt thằng Ngàn vung tay tát một cú trời giáng: “Bốp!” Rồi lão cuốn chăn quanh người lao thẳng vào đám lửa. Mọi người nín thở. Im lặng. Bỗng: “Rầm! Rầm!” Mái nhà bị lửa cắn gẫy rời đổ rụm xuống. Con Cúc gào khản cả hơi.
Một bóng đen đầy khói bụi lao vọt ra khỏi cửa, lăn quỵ ra đất. Mọi người tháo tấm chăn ra. Lão Sầm đã cuốn chặt con Tý trong chăn. Cả hai bốc khói nghi ngút. Lĩnh xách vội xô nước đổ lên người hai ông cháu. Cúc “cave” vồ lấy con ôm vào lòng.
Thằng Ngàn ôm má quỳ xuống bên lão Sầm. Hắn thấy khóe mắt lão ri rỉ nước: “Mày có vợ có con mà không biết giữ. Đồ ngu!” Đoạn lão ho khạc ra mấy búng máu rồi tắt thở.
Đoạn kết thực sự
Thực ra lão Sầm không chết. Vợ chồng thằng Ngàn đưa lão về căn lều của lão, thay nhau chăm sóc. Được mấy tuần, lão hồi phục dần, lại khỏe như vâm, uống rượu như nước lã.
Thằng Ngàn đồng ý cho con Cúc bán nhà. Con Cúc lấy vốn làm một cửa hàng cắt tóc gội đầu nhỏ nhỏ. Thằng Ngàn tiếp tục làm xe ôm. Số tiền còn lại, hai đứa mang đến sửa sang lại túp lều của lão Sầm thành một ngôi nhà cấp bốn rồi về sống cùng nhau ở đó. Cái Tý gọi lão Sầm là ông. Nó thích lắm. Suốt ngày được ông ra bờ sông lấy đất sét đẹp quánh về tha hồ cho nó nặn búp bê.
Tôi mang truyện này đến cho một người bạn cùng cơ quan đọc. Bạn tôi bảo: “Truyện của mày biết kiểu gì mà cứ lắt nha lắt nhắt như manh áo vụn thế?” Tôi trả lời: “Ừ, tao có phải dân viết chuyên nghiệp đâu! Có gì viết nấy thôi” Bạn tôi nói: “Viết truyện phải có hư cấu. Mày xưng “tôi” trong truyện, không sợ thằng Ngàn “nghiện” đọc được nó vác xăng đến đốt nhà à?” Tôi cũng hơi run, hỏi: “Làm thế nào bây giờ?” Bạn tôi đăm chiêu: “Mày đừng để nhân vật chính là “tôi”. Đặt tên khác đi cho truyện có vẻ khách quan”.
Tôi lấy tên của chính bạn tôi đặt tên cho nhân vật của chuyện này. Chắc nó cũng không giận tôi. Gì thì gì, thằng Lĩnh cũng là người bạn cùng cơ quan đầu tiên tôi dẫn về thăm nhà tôi ở xóm Dạt.    
HOÀNG TÙNG


“Những mảnh đời xóm Dạt” được trình bày văn bản như một phóng sự, với các tiểu đoạn và cách mô tả thiên về báo chí. Nhưng đây lại là văn ở tầng sâu nhất - tầng có thể đánh động đến thế giới cảm xúc của người đọc bằng số phận của người khác.
Gần đây, Hoàng Tùng chăm chỉ theo đuổi dòng văn học kiếm hiệp - lịch sử - một thể loại hiện không nhiều nhà văn Việt đương đại quan tâm. “Những mảnh đời xóm Dạt” có phần “lạc dòng”, nhưng nó vẫn giữ được vẻ chững chạc vốn có ở nhà văn trẻ (sinh năm 1980), hiện tại đang làm việc trong lĩnh vực Marketing này.

Truyện ngắn: Con mèo hoang

CON MÈO HOANG

Khu tập thể cũ, quán cơm cũ, con mèo cũ…
Dạo này con mèo hoang hay lởn vởn quanh quán cơm của bà Toán. Con mèo hoang có màu đen tuyền từ đầu đến chân. Bà Toán xùy xùy đuổi. Nó không sợ còn quay lại trừng mắt nhìn bà. Mắt nó như hai đốm lân tinh sáng quắc ma quái.
Bà Toán rất ghét con mèo hoang vì nó hay bới thùng rác khiến mọi thứ văng ra bừa bãi bẩn thỉu. Cái Mận không biết bà Toán ghét con mèo. Thế nên có lần khách ăn thừa, cái Mận vứt một ít xương cá cho con mèo. Bà Toán trông thấy lập tức chửi nó một trận té tát. Cái Mận bảo là con mèo bắt chuột giỏi lắm, hay là bắt nó về nuôi. Có con mèo trong bếp thì lũ chuột sẽ bớt hoành hành hơn. Bà Toán trề mồm: “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang! Rước cái của nợ này về để mà tao đóng cửa quán à?”.

1.Chuyện cái Mận

Bà Toán ghét con mèo hoang còn cái Mận thì không. Có lẽ bởi vì cả nó và con mèo đều là những kẻ cô đơn. Nhà nó ở tít tận vùng quê chiêm trũng cả đời làm muối. Suốt ngày gia đình nó bám mình dưới ánh nắng chói gắt đến khi người khô quắt đen nhẻm còn chân bị nước mặn ăn đến nứt nẻ mới xong được mẻ muối. Xúc muối cho lên cái xe đạp cà tàng đạp rạc chân vài chục cây số mới đến thị xã mà bán được vài đồng. Đó là may mắn. Còn nếu như đến gần ngày thu hoạch muối mà trời mưa một trận thì coi như công sức cả nhà đổ xuống sông xuống bể.
Mẹ cái Mận mất sớm. Bố nó lấy vợ hai. Cái nghèo hình như làm con người ta dễ ác độc hơn. Bố nó, dì nó suốt ngày cau có, cãi nhau chửi nhau vì những việc đâu đâu. Rồi hai người quay ra trút giận lên đầu lũ con lít nhít. Bố nó hàng ngày vắt kiệt sức trên cánh đồng muối, về đến nhà là nằm vật ra mệt mỏi. Sau mỗi vụ muối, số tiền còm cõi đưa về chẳng thấm vào đâu so với một gia đình đông con. Dì nó cũng tốt thôi, chẳng qua nhà nheo nhóc quá. Dì lo cho mấy đứa con của dì với bố nó đã mệt mỏi lắm rồi, thời gian đâu mà chăm lo đến nó. Thế nên khi được một người hàng xóm mách, dì lập tức gửi nó lên trên này làm thuê ở quán cơm của bà Toán. Xa nhà, lạ nước lạ cái, lại chậm mồm chậm miệng nên cái Mận chẳng có ai làm bạn. Làm việc xong, nó cứ thui thủi một mình.
Con mèo hoang hình như thích được gần người. Đặc biệt những hôm trời rét, cái Mận để ý thấy con mèo cứ nhìn vào trong nhà chăm chăm thèm khát. Thình thoảng không thấy bóng dáng bà Toán, nó liền đi lại gần cái Mận. Cái Mận đưa tay ra gọi con mèo. Nhưng trong một tích tắc, bản năng phòng vệ của con mèo lên tiếng. Nó đã bị đánh đập xua đuổi quá nhiều. Nó nghi ngại rồi ngoắt người chạy mất hút. Cũng đúng thôi. Không cẩn thận là nó ăn đòn như chơi. Mấy hôm trước, thấy nó đi qua cổng quán, bà Toán ngứa mắt vác chổi ra xua đuổi. Con mèo bị đánh giật mình. Bà Toán giương chổi lên định đập một phát nữa. Bỗng nhiên nó gào lên phun phì phì dữ tợn như rắn hổ mang khiến bà Toán chút nữa thì ngã ngửa. Từ đó bà càng ngày càng ghét con mèo hoang. Con mèo cũng tỏ ra thù địch bà không kém. Cứ lúc nào thấy bóng bà là nó lại xù lông lên mắt dựng ngược.

2.Chuyện bà già nuôi mèo

Theo như những người ở khu tập thể này kể lại thì con mèo ban đầu không hẳn là mèo hoang. Nó đã sống ở cái khu tập thể này lâu lắm rồi, từ trước cả khi có quán cơm của bà Toán. Trước đây, nó là con mèo nuôi của một bà già sống ở khu tập thể. Bà già sống neo đơn cô độc trong căn hộ gác ba. Nghe nói nhà bà trước đây ở trên phố. Nhà mặt phố nhưng nhỏ hẹp. Hai thằng con lấy vợ rồi va chạm suốt ngày. Không gian sống bí bách khiến con người ta nhỏ nhen. Không đành nhìn cảnh hàng ngày hai thằng con hầm hè nhau, hai đứa con dâu chửi rủa lổng chổng, bà già bán căn nhà đi. Số tiền bán nhà, bà giữ lại một ít gửi tiết kiệm, còn lại chia cho hai đứa con. Thế là mỗi thằng con ở một nơi, không đứa nào đụng chạm đứa nào nữa, hết cả đánh chửi nhau.
Nhưng có một điều bà già không tính tới. Hai thằng con không chịu ở cùng nhau đã đành, chúng nó cũng khó chịu khi ở cùng bà. Ban đầu bà ở cùng thằng cả. Được dăm bữa nửa tháng, con vợ nó suốt ngày cằn nhằn đánh chó đuổi mèo bóng gió bảo bà ăn hại. Bà dọn đồ sang nhà thằng hai. Một lần trong bữa ăn, bà lập cập làm đổ bát nước mắm, thế là đứa con dâu nhảy lên mắng bà xơi xơi còn thằng chồng hèn nhược thì cúi đầu im thin thít. Thế là bà quyết định rút số tiền tiết kiệm ra mua căn hộ tập thể nhỏ xíu ở đây để khỏi quấy nhiễu gia đình hai thằng con. Bọn chúng nó cũng lấy lý do làm ăn bận rộn, chẳng mấy khi đến đây thăm nom bà. Cùng lắm thì ngày lễ ngày Tết, chúng nó chỉ tạt qua lấy lệ nhanh nhanh chóng chóng rồi biến mất. Bà già có con mà như không. Thỉnh thoảng bà ôm con mèo khóc.
Một hôm, con mèo kêu cả ngày không dứt. Tiếng kêu như tiếng người than vãn. Hàng xóm chạy sang gọi cửa. Không có ai trả lời. Phá cửa ra, người ta thấy bà già đang ngồi trên chiếc ghế tựa nhìn ra cửa sổ. Con mèo nằm gọn trong lòng bà kêu thê thiết. Bà già đã chết tự lúc nào. Lũ con tụ về làm đám ma cho bà cụ. Khi lũ con đang khóc than sụt sùi, bỗng nhiên con mèo nhảy qua người bà cụ khiến bà cụ bật ngồi dậy chỉ thẳng tay vào mặt lũ con như oán trách. Hai thằng con ngã vật ngửa người ra, mặt tái đi không còn một giọt máu. Còn hai đứa con dâu nanh ác thì sợ quá quì sụp xuống lạy quan tài tru tréo xin bà tha tội. Đó là người ta kể thế thôi. Thực ra thì khi đóng nắp quan tài, ai nấy đều khiếp hãi khi thấy con mèo đã lẻn vào nằm cuộn tròn dưới chân bà già lúc nào. Mọi người đuổi mãi nó mới chịu đi.
Dẫu sao sau khi bà cụ già qua đời, con mèo chính thức trở thành mèo hoang. Hai đứa con tống tháo nhanh chóng bán ngôi nhà đi chia nhau. Con mèo mất chỗ ở. Kể từ đó, nó cứ sống quẩn quanh ở khu tập thể này. Kể ra cũng lạ. bao nhiêu gia đình nuôi mèo, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, nào là chăm bẵm, nào là xích, nào là chuồng, thế mà mắt trước mắt sau toàn bị bọn ăn trộm bắt mất lúc nào chẳng biết. Riêng con mèo hoang này thì cứ lặt dặt sống từ năm này qua năm khác. Có mấy thằng nghiện nghe đồn cửa hàng tiểu hổ chuộng nhất loại mèo đen, sẵn sàng mua với giá gấp ba gấp bốn lần giá thường. Bon nó rình bắt con mèo ròng rã mấy tuần, đủ các loại bẫy khác nhau, đủ các loại mồi khác nhau, thế mà con mèo vẫn chẳng sao. Có người bảo con mèo sống lâu đã thành tinh rồi.  

3.Chuyện bà Toán

Bà Toán thì chẳng tin là con mèo thành tinh. Bà chỉ nghĩ là nó sống lâu nên tinh khôn hơn lũ mèo thường. Bà cũng theo dõi xem nó ngủ ở đâu để rình bắt nhưng con mèo dường như linh tính biết nên chưa bao giờ bà Toán tìm được nơi ẩn náu của nó. Thực ra chuyện bắt con mèo đem bán lấy tiền chỉ là chuyện phụ. Điều quan trọng nhất mà bà Toán muốn con mèo biến đi bởi vì nguyên do nó hay kêu đêm.
Như đêm nay chẳng hạn. Đang tĩnh lặng. Mọi người đang ngủ. Bỗng nhiên “Ngào! Ngào! Ngào!” Con mèo bắt đầu “bản tình ca” của nó. Ban đầu nó kêu rả riết trầm bổng như tiếng hát thánh thót mời gọi. Được một lúc nó đổi giọng gừ gừ ẩm ử khản đặc chả biết vui hay buồn. Mấy người không chịu được lấy gạch ném nó. Nó chạy biến lên nóc khu tập thể rồi gào như trẻ con khóc: “Nghéo! Nghéo!” nghe sởn da gà!
Bà Toán vừa ngủ được một lúc thì giờ mắt bà đã mở trừng trừng. Cứ mỗi lần nghe tiếng mèo kêu, bà lại nhớ đến cái ả cave có dáng đi uyển chuyển như một con mèo cái. Bà bị bệnh mất ngủ từ khi lão chồng bỏ bà theo ả cave đi mất hút. Ai có thể tin được là cái lão chồng hàng ngày lù đù an phận thủ thường ấy dám bỏ bà đi? Lão hoàn toàn sống dựa vào bà. Một tay bà quán xuyến việc gia đình, một tay bà chăm lo cửa hàng cơm. Lão chỉ việc phụ giúp bà ở cửa hàng và thỉnh thoảng ngửa tay để bà thí cho vài đồng uống cà phê. Cuộc sống của lão hoàn toàn dựa vào bà. Bà cứ nghĩ rời bà ra, lão sẽ chẳng sống được vài ngày. Thế mà lão bỏ đi thật. Mà lão lại bỏ bà đi theo cái ả cave mắt xanh mỏ đỏ mới đau chứ. Bà còn nhớ khi cái con cave đấy nó vác xác đến nhà bà ăn cơm, mùi nước hoa sực nức. Cứ mỗi lần ả về là bà lại tha hồ chửi rủa rồi nghiến răng răn đe lão chồng: “Cẩn thận không nó chài cho không còn cái quần đùi mà mặc”. Lão chồng bà mỗi bận như thế lại nghênh nghênh cái đầu: “Ai thèm xớ rớ gì đến cái loại đàn bà ấy?” Ả cave hay mang theo một con mèo. Đến quán, ả ăn một miếng cơm rồi lại đút cho con mèo một miếng. Rồi ả nựng nịu con mèo như nựng con. Có mấy lần, ả xin chồng bà ít cá cho con mèo. Lão chồng bà te tái cho vào túi ni lông đưa cho ả. Rồi thế nào mà lão và ả lại bắt tình với nhau trước mũi bà mà bà không biết. Chỉ đến khi lão bỏ đi, hàng xóm đồn ầm lên, bà mới ngược xuôi chạy đến chỗ trọ của ả cave để tìm chồng. Phòng trọ hoang vắng. Con mèo của ả cave nhìn thấy bà ngóc cổ lên gọi “ngheo, ngheo” như hỏi bà chủ nó ở đâu? Hai đứa chúng nó đã bỏ đi, bỏ lại cả con mèo.
Cứ mỗi lần mất ngủ là bà lại suy nghĩ tìm lý do tại sao lão chồng khốn nạn ấy lại bỏ rơi bà? Phải chăng tại bà suốt ngày vật lộn ở cái quán cơm này? Hay là tại ngày nào xong việc người bà cũng nhễ nhại mồ hôi ướp mùi hành tỏi, hai vợ chồng có khi cả tháng chả gần gũi nhau? Hay là tại bà quen thói bán hàng chợ búa, suốt ngày quát mắng xa xả, vợ chồng chả mấy khi có được một cuộc trò chuyện ra trò chuyện? Hay là tại bà làm hết mọi việc nên lão chồng khốn nạn “nhàn cư vi bất thiện”? Bà cứ suy nghĩ tìm câu trả lời nhưng chẳng bao giờ có câu trả lời chính thức cả.
Ban đầu bà Toán tin chắc là lão chồng sẽ về. Cái lão khốn ấy đi với con yêu tinh kia đến lúc sạch túi là sẽ vác xác về. Thậm chí bà đã từng nghĩ đến kịch bản: khi lão chồng về, việc đầu tiên là bà sẽ lôi lão ra trước bàn dân thiên hạ mà chửi bới bêu riếu cho mọi người thấy rõ được cái bản mặt trăng hoa của lão. Thế rồi một thời gian sau, kịch bản có vẻ ít lửa hơn: lão sẽ về quỳ xuống ôm chân van xin bà, lúc ấy sẽ tùy theo tình hình mà bà sẽ xem xét. Thế nhưng mãi mà lão không vác mặt về. Có lẽ lão biết là van xin bà cũng nhục. Nhưng lão chịu nhục quen rồi mà? Hàng ngày giúp bà ở quán cơm, bà chẳng chửi lão xơi xơi vì tội chậm chạp, lão đều nín nhịn mà có nói lại gì đâu?
Không ngủ được, bà Toán lại nằm nghĩ miên man. Ba năm rồi, chẳng thấy tăm hơi lão chồng chết toi đâu. Lão đã trốn biệt. Chắc lão sẽ chẳng bao giờ về nữa. Bà thở dài một tiếng rồi nhìn đồng hồ. Mới ba giờ sáng. Bà Toán cứ trằn trọc trên chiếc giường êm ấm mà không thể nào ngủ lại được. Mất ngủ lăn qua lộn lại như thế này, sáng hôm sau dậy có khi còn thấy mình mệt hơn thức làm việc thâu đêm.
Bà Toán liếc sang giường bên nhìn cái Mận ngủ mà thấy ghen tức. Đúng là đang tuổi ăn tuổi lớn. Con bé ngủ ủn ỉn. Sấm động bên tai cũng không biết gì. Người đâu mà dễ ngủ thế. Con mèo vẫn tiếp tục kêu gào sầu thảm. Đợt này chắc nó đang động đực. Ngoài lý do con mèo kêu làm bà mất ngủ, bà còn ghét con mèo hoang bởi vì cái ánh nhìn của nó rất giống với con cave đã chiếm đoạt chồng bà. Bà nặng nề lăn lộn trên giường rồi lầm bầm: “Cái đồ mèo đĩ đượi! Bà mà tóm được kiểu gì bà cũng đập chết”.

4.Tiếp tục chuyện cái Mận

Sáng hôm sau, cái Mận dậy sớm dọn quán. Quán ăn của bà Toán đông nhất khu tập thể này. Ngày nào nó cũng đầu tắt mặt tối. Chuẩn bị đồ ăn, phục vụ khách ăn, khách ăn xong lại phải dọn dẹp. Nó gom hết rác rưởi vào túi ni lông rồi mang đi vứt. Bước ra cửa, nó giẫm lên một cái gì đó nhũn nhũn khiến nó ngã đánh oạch. Rác rơi tung tóe. Cái Mận nén đau chống tay dậy. Bỗng nó thét lên kinh hoàng. Cái vật nhũn nhũn mà nó giẫm lên là một con chuột cống đã bị cắn nát mất đầu máu chảy lầy bầy. Chắc con mèo hoang cắn chết con chuột ăn không hết rồi vứt xác ở đây.
Anh thợ xây ở nhà bên cạnh thấy thế liền chạy ra đỡ. Bàn tay của anh áp vào khuôn ngực mới nhú của cái Mận khiến má nó đỏ bừng. Anh thợ xây nhỏ nhẹ hỏi han xem cái Mận có làm sao không? Nó líu ríu cảm ơn. Anh thợ xây phủi phủi bụi trên áo rồi tiện tay vuốt má nó và mỉm cười. Nụ cười đẹp như tài tử xi nê. Cái Mận ngẩn cả người. Từ bữa đó, anh thợ xây hay sang quán nhà bà Toán ăn cơm bụi. Anh vui tính và hay nói chuyện với nó lắm. Thỉnh thoảng anh còn đùa cợt với nó. Cứ mỗi lần bị anh thợ xây trêu ghẹo, cái Mận lại đỏ ửng mặt hai mắt long lanh. Rồi một hôm bà Toán đi vắng, anh thợ xây ôm chầm lấy nó hôm ngấu nghiến. Nó mềm nhũn cả người…
Cái Mận thỉnh thoảng buổi đêm trốn bà Toán tranh thủ gặp anh thợ xây. Từ khi yêu anh thợ xây, nó cứ có cảm giác là con mèo hoang đang ẩn hiện ở đâu đó theo dõi nó. Cái Mận đâm ra ghét con mèo. Có lần nó đang trốn ra khỏi quán. Bỗng nhiên con mèo kêu lên vang động khiến bà Toán vùng dậy. Thế là nó lại phải chui vào nhà nằm yên trên giường mà người ngứa ngáy rạo rực như bị kiến đốt. Hôm khác, nó và anh thợ xây đang cuốn xoắt xuýt vào với nhau bên góc cầu thang tối. Bỗng nhiên con mèo hoang ở góc nào đó kêu ré lên rồi nhảy vụt ra khiến cả hai giật nảy mình. Con Mận xốc lại quần áo rồi ném cho con mèo cái nhìn đầy uất hận: “Đúng là cái loại mèo hoang! Gào thét cứ như bị chọc tiết”. Anh thợ xây cười khùng khục: “Nó động đực ý mà. Chắc tại con mèo này chưa tìm ra mèo đực. Có phải ai cũng may mắn như em đâu”. Những lúc như thế cái Mận chỉ biết nép vào bên người yêu mà thỏ thẻ: “Đồ khỉ!”.
Rồi cái Mận thấy thỉnh thoảng buồn nôn. Bụng nó ngày càng to dần. Cái Mận vội báo cho anh thợ xây. Anh an ủi nó vài câu, bảo nó cứ yên tâm, có gì anh sẽ lo liệu. Nhà xây xong. Anh thợ xây bảo cái Mận là anh về nhà để xin phép bố mẹ rồi sẽ lên đón nó làm đám cưới. Thế rồi anh đi biệt. Nó chờ. Chờ mãi…
Cái Mận chờ được nhưng cái bụng của nó thì không chờ. Bụng nó to ra dần. Người nó làm gì cũng uể oải. Mấy người ở khu tập thể thấy dáng đi lạch bạch của nó nghi ngại nói với bà Toán. Bà đem chuyện đó ra hỏi con Mận. Nó chỉ bảo là mấy hôm bị ngã nước, đau bụng. Thế là bà Toán yên tâm: “Con Mận nó ở với tôi suốt ngày, việc làm không hết, lấy đâu thời gian đi với gian mà chửa hoang?”.
Rồi đột nhiên cái Mận xin bà Toán nghỉ làm ở quán ăn.
Bà Toán tiếc lắm. Con bé chăm lam chăm làm lại thật thà. Bà tìm mọi cách giữ cái Mận lại nhưng nó nhất quyết xin nghỉ. Bà ghìm lương nó không trả, nó cũng khăng khăng đi. Bà điên tiết chửi mắng nó không tiếc lời. Cái Mận chỉ im lặng ri rỉ khóc. Mấy ngày liền từ nịnh bợ đến dọa dẫm mà nó vẫn không lay chuyển. Cuối cùng bà Toán đành để nó đi. Cái Mận bảo nó vào Nam làm công nhân.  

4.Đoạn kết

Mấy tháng sau, cái Mận lại vác mặt về xin bà Toán vào làm lại. Từ đận nó nghỉ, bà kiếm mãi mà không được đứa phụ việc nào ưng ý. Đứa thì nhanh nhưng đoảng. Đứa thì cẩn thận nhưng chậm. Đứa thì cả đoảng cả chậm. Chẳng mấy đứa thạo việc như cái Mận. Tuy trong lòng mừng thầm nhưng bà Toán vẫn làm bộ mặt giận: “Tao đã bảo rồi, vào Nam có mà chết đói! Mày không nghe, giờ sáng mắt ra chưa?” Cái Mận cúi đầu không nói gì, chỉ hì hụi dọn dẹp cửa hàng.
Cái Mận về buổi chiều thì đêm hôm con mèo hoang bắt đầu kêu. Tiếng kêu lúc nỉ non, lúc lại oang oang như người bị rạc họng. Bà Toán không ngủ được. Cái Mận cũng không ngủ được. Đến nửa đêm con mèo mới chịu ngậm miệng lại.
Cả hai người vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lạch xạch ngay ở phòng bếp. Bà Toán lay cái Mận dậy. Cả hai vác gậy vác đòn gánh lò dò xuống bếp. “Tách!” Đèn bật. Con mèo đã kịp cạy vung, miệng càm con cá rán đang trợn ngược mắt nhìn hai người. Cái Mận ngạc nhiên vì từ trước đến nay chỉ thấy con mèo hoang bới rác chứ chưa bao giờ thấy nó ăn vụng. Bà Toán vung đòn gánh lên: “Bốp! Bốp!” Con mèo gào lên thảm thiết rồi vùng chạy. Dáng nó chạy uể oải lệt xệt lảo đảo. Chắc nó đã bị đòn gánh đập vào chân. Bà Toán đuổi theo: “Phải tóm bằng được chứ nó cứ kêu suốt ngày thế này tao mất cả ngủ”. Cái Mận lúc cúc chạy theo sau hỏi: “Sao hôm nay nó kêu khiếp thế nhỉ?” Bà Toán trề giọng: “Lại động đực ý mà. Mấy hôm nay hôm nào nó cũng kêu gọi giai, điếc cả tai, mất cả ngủ”.
Con mèo chạy đến cái nhà kho bỏ hoang rồi nhảy vào trong đó. Bà Toán và cái Mận lại gần. Có tiếng léo nhéo. Cả hai soi đèn vào. Một lũ mèo con đang lúc nhúc rúc tí con mèo hoang. Nó đang nằm đầy vẻ mệt mỏi. Bà Toán soi nhòm vào rồi nói: “Rình mãi, giờ tao mới tìm được ổ của mày”. Thấy ánh đèn chiếu vào lũ con, ánh mắt con mèo hoang bỗng ngược lên sáng quắc hoang dại. “Ngáo!” Con mèo co mình lại như một cái lò xo, lao thẳng về phía bóng đèn quào cấu điên loạn. Bà Toán vội gạt con mèo. Tay bà đã bị nó cào xước, rươm rướm máu. Bà điên tiết vác đòn gánh phang thẳng cánh. “Bốp! Bốp! Bốp!” Con mèo bị đòn gánh đập thẳng vào đầu nằm quay đơ. Bà Toán chưa hết cơn giận vụt thêm mấy phát nữa vào người con mèo hoang. Người nó nảy lên giãy giãy rồi nằm im như cái giẻ lau. Lũ mèo con nghe thấy tiếng động mạnh ngơ ngác kêu ngheo ngheo.
Cái Mận nhìn bà Toán ngơ ngẩn: “Bọn mèo con này xử lý thế nào?” Bà Toán chống nạnh: “Mày chạy về nhà mang cái bao tải dứa ra đây”. Cái Mận lút cút chạy về theo lệnh của bà Toán. Mang cái bao tải đến nơi, bà Toán vứt xác con mèo mẹ và tóm gáy lũ mèo con lần lượt cho vào bao tải rồi nói: “Mày mang cái bao tải nay ra cái hồ nước thải vứt đi”. Cái Mận ngẩn người ra. Bà Toán giục: “Có nhanh lên không thì bảo! Vứt cái lũ khốn này đi cho nhẹ nợ! Nhớ vứt xuống nước cho cả lũ chết đi đấy nhá”
 Cái Mận cầm cái bao tải lầm lũi đi trong đêm. Mấy con mèo con chưa biết mẹ nó đã chết, vẫn hì hụi rúc tí mẹ ủn ỉn. Được một lúc, lũ mèo con khát sữa kêu lên i ỉ. Tiếng kêu như tiếng trẻ con khóc.
Cái Mận bỗng thấy ngực mình căng sữa.
Nó nhớ tiếng khóc của đứa con nó.
Trong đầu nó là hình ảnh đứa con đỏ hỏn đã bị nó bỏ lại ở nhà hộ sinh.
Nó bỗng ứa nước mắt.
Nó không đi ra hướng bờ sông nữa mà chạy thẳng đến nhà hộ sinh.
HOÀNG TÙNG
(Hà Nội 20/12/2010)

Truyện ngắn: Nàng tiên suối trăng




NÀNG TIÊN SUỐI TRĂNG

Bạn bè thường gọi Tuấn là Tuấn ''đồ cổ''. Không phải anh có máu chơi đồ cổ mà tại anh đúng là ''đồ cổ'' quá. Con trai thành phố gì mà cứ suốt ngày đọc sách và cắm cúi học bài. Năm nay Tuấn quyết vùng ra khỏi vòng tay chăm sóc của bố mẹ. Tự anh cảm thấy mình sống trầm quá, hiền quá và ... tồ quá. Biết tổ chức UNESCO cần người tình nguyện đi nghiên cứu văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc trong dịp hè, Tuấn nộp đơn xin thi tuyển. Với trình độ tiếng Pháp ở mức lưu loát, tiếng Anh ở mức nghe nói và khả năng sử dụng vi tính thành thạo, sau cuộc phỏng vấn và nửa tháng thử việc Tuấn đã được nhận. Mặc cho bố mẹ can ngăn, anh vẫn thu xếp hành trang lên đường.

Tuấn đã đọc rất nhiều những tài liệu về người dân tộc. Có rất nhiều điều cần phải biết khi tiếp xúc với họ. Họ mời rượu thì không nên từ chối, ít nhất phải uống với họ một chén, nhà nào treo lá xanh ngang cửa thì không được vào, khách lạ không được ngồi lên cái giường đặt trước bàn thờ... Tuy nhiên anh vẫn cảm thấy hơi hồi hộp khi bước vào ngôi nhà sàn to nhất bản. Đây là nơi cán bộ Vườn Quốc gia Ba Bể đã liên hệ cho anh ở trong suốt thời gian thực tập.

Bác Pành chủ nhà bước ra đón khách. Bác là một người cởi mở và dễ gần. Biết Tuấn đến vùng này nghiên cứu về những nét văn hóa của người Tày, bác cười sảng khoái và rót ra hai chén rượu. Tuấn cùng bác cạn chén đầu tiên. Rượu ngô thơm nồng cháy họng rồi bốc lên nhức mũi. Bác Pành nói to :
- Cháu ở đây với bác. Nhà bác rộng, lại không có con trai, không có người uống rượu cùng, buồn lắm. ở lại đây, bác kể những phong tục của người Tày cho mà nghe, mà viết.
Tuấn cảm ơn. Anh kiểm lâm của Vườn Quốc gia Ba Bể cười cười. Trước lúc về, anh kéo Tuấn ra :
- Nhà bác Pành có cô con gái xinh lắm đấy. Cẩn thận không bị cô nàng chài cho không về được Hà Nội đâu, hì hì. Thôi, anh đi đây!
- Vào đây, vào đây! - Bác Pành nói rồi kéo Tuấn vào mâm rượu. Bác rót mấy chén ra. Bác vừa uống vừa nói cười oang oang. Tuấn không biết uống rượu nhưng sợ làm mất lòng bác nên không dám từ chối. Được một lúc, bỗng anh cảm thấy mọi thứ mờ ảo, nhoà nhoà. ''Mình say rượu rồi'', ý nghĩ đó chỉ chớm kịp đến thì Tuấn đã gục xuống ngủ.

*
Lúc Tuấn tỉnh dậy thì trời đã về đêm. Trăng sáng. Bản làng, núi rừng lung linh trong ánh trăng quyện với sương núi đẹp đến mê người. Bác Pành thấy Tuấn tỉnh dậy liền bảo Tuấn đi ăn cơm. Cơm nương dẻo ngọt lạ. Ăn cơm xong Tuấn thấy khoẻ hẳn ra, cơn say ban sáng đã dịu xuống. Trăng đẹp quá. Tuấn muốn đi chơi. Bác Pành nói : ''Đi quanh bản thôi nhé. Đừng đi xa kẻo con ma rừng nó bắt mất đấy''. Tuấn cười, dạ thật to.

Tuấn đi quanh bản. Một ngôi nhà vang lên tiếng đàn hát. Tuấn bước đến. Mấy cô gái đang đàn hát cho một đám khách người Pháp nghe. Anh nghe họ nói với nhau : ''Nghe chán chết!'' rồi vỗ tay rất to, vừa vỗ tay vừa nháy mắt cười với nhau vẻ khoái chí lắm. Lúc người chủ đoàn văn nghệ ra nhận tiền thù lao từ mấy người khách Pháp, Tuấn bỗng thấy nao nao. Anh bỏ đi.

Anh đi mãi trên con đường nhỏ. Đường đi dần ra khỏi làng. Anh không để ý lắm. ''Thương mại văn hóa truyền thống'', đó phải chăng là những điều mà anh vừa nhìn thấy. Thì ra những điều anh học ở trường lớp đâu phải luôn luôn đúng. Quả là có những người Tây phương thích tìm hiểu văn hóa Việt Nam, nhưng không phải là tất cả. Thế đấy! Mà hình như những người hát cũng chờ đợi những đồng tiền thưởng từ những người khách lạ thì phải. Thế mà trong sách bảo là người dân tộc hát để đón khách. Hóa ra họ hát còn để kiếm tiền nữa. Muốn nghe hát, phải thuê. Tiếng đàn, tiếng hát trinh nguyên liệu có còn không? Tiếng suối róc rách trước mặt cắt đứt dòng suy nghĩ của Tuấn. Tuấn bước tới rặng cây trước mặt.

*
Sáng hôm sau Tuấn đi chụp ảnh hoa văn, thu thập những mẫu dệt thổ cẩm truyền thống, ghi lại tỉ mỉ cách nấu rượu và những phong tục tập quán của người Tày. Anh nghe được một truyền thuyết: ''Ngày xưa những nàng tiên hay đến vùng hồ Ba Bể tắm. Nàng út thường không tắm mà chỉ nhìn các chị vui đùa dưới làn nước trong xanh. Vua Trời hỏi làm sao ? Nàng nói tại ngượng, sợ người khác nhìn thấy. Nàng hay tìm đến những chỗ suối vắng người để tắm...''
Tuấn về nhà. Ngôi nhà ngạt ngào mùi cơm nương. Anh xuống sân rửa mặt. Thấy có người đang dọn cơm, anh vội nói : ''Bác Pành để cháu dọn cho'' rồi chạy lên. Một cô gái quay lại nhìn Tuấn ngơ ngác. Có lẽ cô không hiểu chàng trai là ai và chàng vừa thốt ra từ lạ lùng gì ? Bác Pành chạy ra : ''Tuấn à, lên đây ăn cơm''. Thấy Tuấn ngây đần mặt nhìn cô gái, ông cười : ''Con gái bác đấy. Nó tên là Sinh''. Tuấn ''dạ'' rồi lắp bắp điều gì đó không rõ. Đã bao giờ anh bối rối như thế chưa nhỉ ?

*
Một tháng sau, Tuấn và Sinh đã trở nên thân thiết. Tối hôm đó hai người ngồi bên bếp lửa. Tuấn nhớ trước lúc đi, mẹ anh dặn lên vùng đó cẩn thận kẻo bị người dân tộc yểm bùa. Anh chẳng tin. Nhưng rồi vui miệng, anh kể chuyện đó với Sinh. Nàng mỉm cười : ''Có thật đấy!''. Tuấn hỏi yểm bùa bằng cách nào ? Nàng nói : ''Không phải ai cũng làm được bùa. Phải là những già làng, già bản, những người có cái bụng trong như dòng suối làm bùa nó mới thiêng''. Tuấn hỏi cách làm bùa yêu ? Sinh cúi đầu ngượng ngùng : ''Cái đó làm tốn công lắm. Phải bắt hai con cuốc từ hồi còn bé, nuôi cho chúng sống quen với nhau. Lúc lớn lên chúng cặp đôi với nhau. Sau đó giết con cái đi và buộc chân con đực vào một cái cành cây. Con đực nhớ con cái kêu mãi rồi chết. Lấy cái cành cây đó, cúng ma cẩn thận. Yêu ai thì lấy cái cành cây ấy đập vào, người ấy sẽ mê mình.'' Tuấn tinh nghịch hỏi Sinh có bùa yêu không? Má nàng hồng ánh lửa : ''Đã yêu rồi thì cần gì phải bỏ bùa''. Hai người cùng cười.

Tuấn viết thư về cho bạn : ''...Tùng ơi, hình như tao yêu nàng rồi thì phải. Mày không tin phải không ? Nhưng tao đảm bảo một điều nếu mà mày lên đấy mà nghe nàng hát và đánh đàn tính trong đêm trăng bên bờ suối thì mày cũng phải yêu nàng ngay. Mà tao chưa kể chuyện này cho mày nhỉ. Mày biết chuyện tao khinh thường cái kiểu ''thương mại hóa văn hóa truyền thống'' như thế nào rồi đấy. Thực ra tao có muốn cái gì đó quá đáng lắm đâu! Tao chỉ muốn nghe một điệu hát dân tộc cho ra hát dân tộc, nghe tiếng đàn tính cho ra đàn tính, thế nhưng đã có lúc tao tưởng mình hết hy vọng. Tao cứ nghĩ rằng tao đang nghiên cứu những cái vô nghĩa. Nhưng không Tùng ạ, hôm ấy tao đã được nàng hát và đàn cho tao nghe...''.
Trăng rải vàng lên bản. Tuấn rủ Sinh đi chơi. Anh dẫn nàng thẳng ra con suối mà nàng hay tắm. Nàng ngạc nhiên :
- Anh cũng biết con suối này ?
- Không !
- Em thích ra suối ngắm rừng lắm! Những lúc như thế nhìn cái rừng cái núi, nhìn cái hoa cái cỏ, nhìn cái hồ Ba Bể, nhìn bản em đẹp lắm.
- Em biết không, Hà Nội trong những đêm trăng cũng đẹp lắm. - Tuấn trầm ngâm, cậu bỗng thấy nhớ Hà Nội da diết - Anh hay thích lang thang những lúc khuya khuya quanh hồ Trúc Bạch. ở đấy có một con phố mới là phố Trấn Vũ. Phố nhỏ cuốn quanh hồ. Anh hay lên một quán cà phê vắng người, vừa nhâm nhi cà phê, vừa ngắm hồ Trúc Bạch và Hồ Tây.
- Anh có nhớ Hà Nội không ? - Sinh nói nhẹ như làn gió.
- Có, anh nhớ Hà Nội lắm. Hà Nội mùa thu đẹp lắm. Có những con phố nhỏ vắng teo người, lá vàng phủ đầy dưới chân. Đi dạo trên đống lá vàng ấy, chúng vỡ nghe lốp bốp. Những lúc như thế, anh chỉ muốn tìm một nơi nào thật vắng vẻ để ngồi một mình.
- Anh thích ngồi một mình lắm à ?
- ừ, ngồi một mình. Anh chán cái Hà Nội ồn ào lắm. Anh chỉ thích một Hà Nội yên bình. Bạn bè hay bảo anh thuộc týp người cổ lỗ. Anh cũng tự thấy thế. Nhưng đúng là anh thích được một mình, thích được cô đơn. Đôi khi cô đơn nó là một sự giải thoát, làm cho lòng người dịu lại. Em không biết cứ mỗi lần nghe mấy cô trong nhóm văn nghệ đến nhà em hát là anh lại muốn tìm đến một chỗ nào đó thật tĩnh lặng.
Sinh ngạc nhiên vì ý nghĩ của Tuấn giống ý nghĩ của cô quá. Cô hỏi :
- Họ hát chán à ?
- Không! Mà anh cũng không biết nữa. Nói sao nhỉ? Anh mâu thuẫn lắm. Anh không thích thế, đơn giản vậy thôi. Anh không thích cái kiểu hát xong rồi lấy tiền. Mà em biết không những người Tây họ nghe thế chỉ như là thưởng thức một món lạ miệng thôi chứ họ cũng chẳng thích thú gì lắm như anh vẫn tưởng.
- Anh chờ em nhé !- Sinh nói rồi chạy vụt đi. Tuấn không hiểu nàng chạy đi đâu.
Một lúc sau Sinh quay lại. Trên tay nàng là cây đàn tính. Nàng ngồi trên mỏm đá bên bờ suối và hát. Tiếng hát nghe cao vút quyện với tiếng đàn tính và ánh trăng xanh huyền ảo. Tuấn ngây ngất. Anh tưởng như mình đang lạc vào một thế giới khác. Sinh ngồi đó, mái tóc nàng chảy mượt, đôi má nàng đỏ lựng, mắt nàng long lanh sâu thẳm, ánh trăng trùm lên nàng.
- Em giống nàng tiên út trong truyền thuyết - Tuấn bối rối giải thích - Nàng tiên tắm... à mà không! Em xinh như tiên ấy.
- Người Kinh các anh hay nói nịnh lắm - Sinh bẽn lẽn - Người Tày chúng em không tin đâu.
Thời gian làm dự án đã hết. Tuấn đã hoàn thành báo cáo của mình. Anh sắp phải xa cái núi, cái rừng, xa con suối róc rách ngày đêm và phải xa Sinh. Sáng hôm chia tay, anh ngồi bên Sinh, nàng đang thêu một chiếc túi thổ cẩm nhỏ. Mái tóc dài của nàng chảy mượt dưới sàn nhà toả mùi hương ngai ngái. Đôi mắt nàng đẹp quá. Đôi mắt sâu thẳm với hàng mi dài ngợp. Đôi mắt nàng đang chăm chú nhìn theo nếp vải. Tuấn bỗng buột miệng nói ra cái điều mà lâu nay cậu vẫn nghĩ :
- Sinh này. Mọi người hay khen cách phối màu trên vải thổ cẩm ở chỗ em đẹp và tinh tế. Anh thì anh thấy nó cứ lòe loẹt và đồng bóng thế nào ấy.
Sinh hơi bỡ ngỡ. Nàng đỏ bừng mặt nhìn thẳng vào Tuấn, nói hổn hển :
- Màu nó xấu nhưng không bao giờ phai đâu.
Buổi chiều Tuấn về. Anh tìm mãi mà không thấy Sinh. ''Nàng chắc chỉ ở chỗ này thôi!''. Anh chạy lên bờ suối. Không có ai. Đứng đó tần ngần một lúc, anh nặng nề quay về bản. Tuấn chào bác Pành và gửi lời chào Sinh. Anh kiểm lâm rú ga xe máy. Tuấn bước lên xe. Xe chuyển bánh. Tâm hồn Tuấn đã một phần ở lại mảnh đất này rồi. Anh ngước lại nhìn núi rừng hùng vĩ, nhìn bản Pác Ngòi rưng rưng trong sương. Bỗng Tuấn thấy bóng một người con gái. Hình như là Sinh, hình như là Sinh. Không kịp nói với anh kiểm lâm Tuấn vội vàng vụt xuống xe chạy ngược lại. Đúng là Sinh rồi. Tuấn lao đến. Sinh ràn rụa nước mắt, nàng khóc :
- Em ở trong suối, thấy anh vào nhưng em không gọi. Em giận anh lắm. Anh khinh người Tày chúng em. Em nhớ anh lắm.
Sinh đổ vào người Tuấn. Anh ôm lấy nàng.
- Anh đi rồi có quay về bản Pác Ngòi không ?
- Có, anh sẽ quay về bản Pác Ngòi, anh sẽ quay về gặp em.
- Em yêu anh ! Sinh nói run rẩy rồi gục đầu vào ngực Tuấn. Anh vuốt nhẹ lên mái tóc dài mượt của nàng. Nước mắt nàng thấm ướt ngực áo anh. Một lúc sau, anh khẽ nâng cằm nàng lên. Anh hôn nhẹ lên những giọt nước mắt đang lăn trên má nàng, hôn nhẹ lên đôi môi trinh nguyên của nàng. Anh siết chặt nàng vào ngực mình một lần nữa rồi nói khẽ :
- Chà điếp noọng lai (Anh cũng yêu em nhiều lắm - tiếng Tày) - Rồi anh hôn ghì lên môi nàng - Anh sẽ quay lại cưới em.
- Tặng anh này - Sinh dúi vào tay anh chiếc túi thổ cẩm ban sáng - Màu nó xấu nhưng không bao giờ phai đâu.

*
Tôi và Tuấn ngồi nói chuyện. Nó gần như đã biến thành một người khác. Nó rắn rỏi và đầy đam mê trong công việc :
- Mày nhìn đây này - Tuấn rút chiếc túi thổ cẩm ra - Sinh tặng tao đấy. Tao đố mày giặt phai được nó đấy. Màu nó xấu nhưng không bao giờ phai đâu.
- A ha, còn chuyện về em Sinh nữa chứ nhỉ. Thế nào, mày chán cảnh chim kêu vượn hót ở cái bản đèo heo hút gió đấy chưa ?
- Chán là chán thế nào ? Bản báo cáo của tao vừa rồi còn chưa đủ. Mà còn lâu mới nghiên cứu đủ. Tao sẽ xin lên làm thêm một dự án nữa ở Pác Ngòi. Ra trường, tao sẽ hỏi bác Pành cho tao cưới Sinh. Tao hứa với Sinh rồi.
- Mày bị làm sao thế ? ở Hà Nội sướng thế này thì không thích. Chui lên cái vùng ma thiêng nước độc ấy làm gì ? May bị nó bỏ bùa rồi à ?
Tuấn cười, anh nhớ lại câu nói bên bếp lửa của Sinh :
- Đã yêu rồi thì việc gì phải bỏ bùa.
Đúng vậy. Đã yêu rồi thì việc gì phải bỏ bùa. Tuấn yêu cả hai nơi. Anh yêu Hà Nội. Anh cũng yêu Pác Ngòi. Biết chọn nơi nào nhỉ ? Hà Nội mùa thu đẹp lắm, đẹp hơn Pác Ngòi nhiều, nhưng Hà Nội không có Sinh, không có nàng tiên nhỏ của anh.
Anh sẽ trở lại Pác Ngòi.
                                                                                                                       HOÀNG TÙNG